Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC



PGS,TS Hồ Khang
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn.
Vào giữa những năm năm mươi của thế kỉ XX, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh, trở thành đối trọng với hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa. Về công nghiệp, phe xã hội chủ nghĩa chiếm hơn 1/3 tổng sản lượng công nghiệp trên toàn thế giới. Về nông nghiệp, sản lượng lương thực của phe xã hội chủ nghĩa đã chiếm trên 48% tổng sản lượng lương thực toàn thế giới[1]. Tại châu Âu, đến năm 1950, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cơ bản khôi phục xong nền kinh tế bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tiếp tục thực hiện các kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu to lớn, vị thế trên trường quốc tế được nâng cao.
Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp lớn thứ hai thế giới (sau Mĩ) và có bước phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ và ngay năm đó Liên Xô tuyên bố cấm sử dụng vũ khí nguyên tử một cách vô điều kiện. Năm 1957, Liên Xô lại phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người và năm 1961 phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh Trái đất. Với tất cả tiềm lực và sức mạnh của mình, Liên Xô trở thành nước xã hội chủ nghĩa duy nhất có thể đối trọng với Mỹ. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng tới quá trình phát triển của mỗi nước. Ở châu Á, năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời đã tăng cường ảnh hưởng và lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở Đông Dương. Trong vòng 10 năm đầu xây dựng chế độ mới, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc tương đối ổn định và đạt nhiều thành tựu. Các nước Inđônêsia, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hoà nhân dân Mông Cổ cũng có bước phát triển trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành chỗ dựa tin cậy cho phong trào giải phóng dân tộc, cho cách mạng Việt Nam. Song vào những năm cuối của thập niên 50 (thế kỷ XX), giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những mâu thuẫn, bất đồng về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, đặc biệt là mâu thuẫn Liên Xô - Trung Quốc. “Sự phân ly Trung - Xô mới nảy sinh càng làm tồi tệ thêm tình hình bất ổn ở thế giới thứ ba vì những cường quốc đó buộc phải cạnh tranh với nhau để gây ảnh hưởng trong những tình hình cách mạng nhằm duy trì những tiêu chuẩn và tính hợp thức cách mạng của mỗi nước, cả trong nước cũng như ở nước ngoài[2]. Những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm ấy chẳng những đã không được khắc phục mà ngày càng trở nên nghiêm trọng, đưa các bên dần đi vào đối đầu, thù địch, dẫn đến sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lợi dụng tình thế này, các lực lượng đối lập trên thế giới, đứng đầu là Mỹ tìm cách khoét sâu mâu thuẫn, gây thêm chia rẽ, và từ đó, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa, tác động tiêu cực tới phong trào cách mạng thế giới và phong trào giải phóng dân tộc... Dù vậy, cho đến những năm 50 của thế kỉ XX, phong trào giải phóng dân tộc đang trên đà phát triển, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân - đế quốc, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, tại Băng-đung (Inđônêsia), 29 nước Á - Phi đã họp và ra Bản tuyên bố gồm 10 nguyên tắc hòa bình, trung lập. Đó là một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa thực dân, củng cố nền độc lập của các nước Á - Phi và bảo vệ hòa bình thế giới. Sau Hội nghị Băng-đung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão. Từ năm 1954 đến 1960, hầu hết các nước Bắc Phi, Tây Phi đều giành được độc lập: Tuynidi (1956), Xuđăng (1956), Marốc (1956), Gana (1957)... Năm 1960, có 17 nước ở châu Phi giành được độc lập và được gọi là “năm châu Phi”. Ở khu vực Mĩ Latinh, cao trào cách mạng bùng nổ khắp nơi, dưới hình thức các cuộc bãi công của công nhân, cuộc đấu tranh giành ruộng đất của nông dân, cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân. Năm 1959, cách mạng Cuba thắng lợi, mở ra cơn bão táp cách mạng và khu vực Mĩ Latinh trở thành “lục địa bùng cháy”. Tuy nhiên, một số nước sau khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng chính trị - xã hội hạn chế, thậm chí ở nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân phương Tây. Trước thực tiễn đó, Nhà nước Việt Nam vừa ủng hộ chính sách hòa bình, trung lập để tập hợp lực lượng tiến bộ thế giới, vừa tranh thủ vận động các lực lượng khác nhau cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Chính sách tăng cường đoàn kết với các nước Á - Phi đấu tranh vì độc lập dân tộc của Đảng LĐVN đã từng bước tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn. Trong lúc đó, tại các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào công nhân, phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội cũng phát triển rộng rãi, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Đó là nhân tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thế giới, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mĩ, tìm mọi cách và sử dụng mọi biện pháp chống phá. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ là nước có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới tư bản chủ nghĩa. Khoảng hai thập niên đầu sau chiến tranh, Mỹ là trung tâm kinh tế - tài chính duy nhất trên thế giới. Mỹ giữ vị thế hàng đầu về quân sự với trên 3.000 căn cứ quân sự lớn nhỏ rải khắp thế giới và nhiều hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại (bom nguyên tử, tên lửa, máy bay ném bom chiến lược tầm xa...). Với ưu thế về sức mạnh kinh tế - quân sự, các nhà  lãnh đạo Mĩ đề ra chiến lược toàn cầu với 3 mục tiêu cơ bản: ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hoà bình dân chủ thế giới; lôi kéo các nước tư bản và tập hợp các lực lượng phản động quốc tế đặt dưới sự chỉ đạo của Mĩ. Từ những năm 50 của thế kỉ XX, Mĩ đẩy mạnh thực hiện chiến lược toàn cầu và xác định Việt Nam là một trong những trọng điểm với quan niệm: Việt Nam là nơi Mỹ phô trương và chứng tỏ ý chí, sức mạnh của mình, qua đó chứng minh cho các đồng minh thấy rằng Mĩ đủ khả năng và giữ vững cam kết đảm bảo an ninh cho họ[3]. Điều đó làm cho đế quốc Mĩ luôn cố gắng với khả năng cao nhất tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam diễn ra lâu dài, gian khổ, ác liệt.
Bên cạnh thế giới bị phân chia thành hai cực đối kháng, cũng phải nhìn nhận rằng đã xuất hiện xu thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh giữa các cường quốc và xu thế này diễn ra dưới nhiều hình thức với những nội dung khác nhau, trở thành một trong những nhân tố chi phối quan hệ quốc tế. Trên thực tế, những năm 50, 60 của thế kỉ XX, giữa các cường quốc trên thế giới như Mĩ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc... có sự tranh giành ảnh hưởng, đặc biệt là cuộc đấu tranh xoá bỏ ý thức hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa với các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời, giữa các nước này lại cũng có xu hướng hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế cùng quan tâm nhằm duy trì hoà bình thế giới. Xu thế đó có tác động mạnh đến các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng.
Tình hình chính trị trong khu vực liên quan tới cách mạng Việt nam cũng có những diễn biến phức tạp. Tại Lào, theo Hiệp định Giơnevơ, lực lượng kháng chiến tập kết tại hai tỉnh là Sầm Nưa, Phongxalì. Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mỹ tìm cách hất cảng Pháp, tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự cho chính phủ phái hữu, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới. Cuộc đấu tranh giành độc lập ở Lào vì thế diễn ra ngày càng ác liệt. Tại Campuchia, lực lượng kháng chiến không có vùng tập kết nên buộc phải giải tán. Từ 1954 đến 1970, Chính phủ Campuchia do Quốc vương Xihanúc đứng đầu đã thực hiện đường lối hoà bình, trung lập nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá, giáo dục trong cả nước. Tuy nhiên, nhiều thế lực phản động trong nước được chủ nghĩa đế quốc bên ngoài ủng hộ, nuôi dưỡng vẫn tồn tại và hoạt động ngày càng mạnh nhằm phục vụ cho ý đồ chống phá cách mạng Việt Nam. Một số nước Đông Nam Á khác lại thực hiện đường lối dựa vào viện trợ Mĩ để phát triển đất nước, sẵn sàng hợp tác cùng Mĩ đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam  mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc chính phủ Pháp phải kí kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng; miền Nam vẫn còn dưới sự cai trị của đế quốc thực dân. Đó là đặc điểm lớn nhất của tình hình đất nước sau năm 1954, đặt ra cho Đảng Lao động Việt Nam những nhiệm vụ hết sức nặng nề, vừa phải lãnh đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh ổn định tình hình, bắt tay xây dựng chế độ mới, vừa lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Hòa bình lập lại, miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn chồng chất do hậu quả của gần một thế kỉ bị nô dịch và 9 năm tàn phá của chiến tranh. 90% dân số miền Bắc vốn sống bằng nghề nông, nhưng nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng: 1.430.000 ha đất bị bỏ hoang, 8 công trình thủy nông lớn và nhiều công trình thủy nông vừa và nhỏ bị phá hủy. Phần lớn ruộng đất chỉ canh tác được một vụ, năng suất thấp, kỹ thuật sản xuất thô sơ, thiên tai liên tiếp. Nông thôn xơ xác, tiêu điều vì địch càn quét, đốt phá. Hòa bình lập lại, nhưng nạn đói vẫn liên tiếp xảy ra. Tháng 9.1954, miền Bắc có nửa triệu người chết đói. Nền công nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công nghiệp với thiết bị cũ kĩ, nhều thứ đã hư hỏng, những bộ phận còn tốt và những tài liệu kĩ thuật quan trọng đều đã bị thực dân Pháp chuyển vào Nam. Tỉ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công-nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt xuống còn 1,5% khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh đó, tình trạng của tiểu - thủ công nghiệp cũng rất sa sút, nhất là không có nguyên liệu sản xuât. Nhiều ngành, nghề thủ công truyền thống bị mai một hoặc mất hẳn. Hệ thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp nghiêm trọng.
Hòa bình lập lại, nhưng tình hình an ninh, chính trị, trật tự và an toàn xã hội trên các địa phương miền Bắc còn rất phức tạp. Trước, trong và sau ngày đình chiến, địch cưỡng ép di cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo Thiên chúa, công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kĩ thuật... Hàng nghìn gián điệp, mật vụ và tổ chức phản động của nước ngoài cài cắm lại vẫn ngấm ngầm hoạt động. Các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các công trình công cộng. Ở biên giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động tiếp tay hoạt động phá hoại. Sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức tạp hơn vì kẻ thù kích động. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, xây dựng lại đất nước là sự nghiệp mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn, trong khi đó, hệ thống chính quyền cơ sở mới hình thành chưa được củng cố, kiện toàn. Trình độ nhận thức và năng lực tổ chức, quản lí kinh tế, quản lí xã hội của cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế. Đây là những khó khăn to lớn mà miền Bắc phải đối mặt trong những ngày tháng đầu tiên có hòa bình.
Bên cạnh những khó khăn, thách thức, miền Bắc cũng có những thuận lợi cơ bản. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng trở thành hậu phương lớn của cả nước, có quân đội hùng mạnh, chính quyền vững chắc, Mặt trận dân tộc thông nhất rộng rãi. Ở miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công và kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Cách mạng Việt Nam có một chính đảng vững mạnh, tôi luyện dày dạn và gắn bó máu thịt với nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến của Việt Nam được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới. Thuận lợi đó, theo thời gian, sẽ ngày càng được nhân lên thành sức mạnh to lớn.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Nam trở thành chỗ đứng chân của hai tập đoàn tay sai thân Pháp và thân Mĩ, là nơi diễn ra sự tranh giành gay gắt, thậm chí khốc liệt giữa các phe nhóm thân Pháp và thân Mỹ. Do phải lệ thuộc ngày càng nhiều vào Mĩ trong quá trình tiến hành chiến tranh Đông Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn ở chính nước Pháp, thực dân Pháp đã dần rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, chuyển giao quyền lực cho đế quốc Mĩ - một cuộc chuyển giao quyền lực không êm thấm. Vì thế, ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mĩ tuyên bố công khai không bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hiệp định, can thiệp sâu nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Để thực hiện âm mưu cơ bản, lâu dài đó, trước hết, Mĩ tập trung nỗ lực giúp chính quyền và quân đội của chế độ Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam. Như vậy, sau ngày Hiệp định Giơnevơ được kí kết, từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, miền Nam buộc phải tập kết, phần lớn cán bộ, bộ đội ra miền Bắc, bàn giao vùng giải phóng cho địch kiểm soát. Đó là một thay đổi lớn tác động tới tâm tư, tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam, trở thành một trong những khó khăn to lớn mà cách mạng miền Nam phải đối diện. Đi đôi với quá trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt các thế lực thân Pháp, Mĩ - Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá cơ sở cách mạng, khủng bố nhân dân. Được Mỹ cung cấp viện trợ và cố vấn, chính quyền, quân đội Sài Gòn thẳng tay đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân dân, trả thù những người tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, những gia đình có người thân đi tập kết; tàn sát cán bộ, đảng viên; ráo riết đánh phá các cơ sở cách mạng. Cách mạng miền Nam tổn thất nặng nề. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ mũi Cà Mau đến bờ Nam sông Bến Hải bao trùm không khí trả thù, khủng bố, ruồng ráp căng thẳng. Máu của những đảng viên cộng sản và của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, xóm thôn. Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, thâm độc, Mĩ - Diệm mưu toan sẽ nhanh chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục được nhân dân Việt Nam. Sau chín năm ròng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hòa bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng khó vượt qua.
Như vậy, sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi vừa có những khó khăn, phức tạp. Đặc điểm lớn nhất, chi phối toàn bộ yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng cả nước là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình chưa kết thúc; mà nó còn phải tiếp tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Cuộc đấu tranh này đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền Nam - Bắc nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên, đặc biệt phải nhanh chóng đưa ra được đường lối chống Mỹ, cứu nước phù hợp, hiệu quả, phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà.
Khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược, nhìn chung đã hình thành được một đường lối tương đối hoàn chỉnh: “kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”. Chính vì thế, ngay từ đầu, toàn dân, toàn quân trên mọi miền Tổ quốc bình tĩnh, tự tin kháng chiến dưới ánh sáng của một đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn của Đảng CSĐD (sau là Đảng LĐVN). Còn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, không phải ngay từ đầu, Đảng LĐVN có ngay một đường lối hình thành đầy đủ, toàn diện để chỉ đạo cuộc kháng chiến, nhất là trong tình hình quốc tế phức tạp, kẻ thù của nhân dân Việt Nam là đế quốc Mỹ câu kết chặt chẽ với các thế lực tay sai trong nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh hơn gấp nhiều lần, đang theo đuổi chiến lược toàn cầu, đất nước lại bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau - một đặc điểm chưa có tiền lệ trong lịch sử. Đường lối đúng đắn ấy phải là kết quả của cả một quá trình tính toán, chọn lựa dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng toàn bộ những vấn đề thuộc về, hoặc liên quan, lường định được khả năng chuyển động của tình hình trong nước, trong khu vực và trên thế giới có tác động tới sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đó còn là kết quả của cả một quá trình đấu tranh gian khổ, trải qua những hạn chế, vấp váp, thậm chí cách mạng miền Nam phải chịu những hy sinh và tổn thất to lớn, vượt qua những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, đúng như Lênin đã nói: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết ngay được cách tự vệ”[4]. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vì vậy, quả không hề dễ dàng, đơn giản.
Từ tháng 7.1954 đến tháng 7.1956 là khoảng thời gian đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Đảng đề ra nhiệm vụ chung trong thời gian này là “đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam, đặng củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc”[5]. Như vậy, mục đích đấu tranh cuối cùng của nhân dân Việt Nam là giành cho được một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ vẫn luôn và đó cũng là mục tiêu xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng từ khi Đảng ra đời. Thực hiện nhiệm vụ đề ra, sau khi tiếp quản miền Bắc, nhân dân Việt Nam bắt tay ngay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định tình hình. Nền kinh tế miền Bắc chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên Đảng LĐVN chủ trương ưu tiên phát triển sản xuất nông nghiệp, vì đó là vấn đề then chốt, là cơ sở của việc cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo lương thực cho nhân dân, phồn thịnh kinh tế, mở rộng việc giao lưu hàng hoá[6]. Nhờ các chủ trương, biện pháp kịp thời, hiệu quả mà sản xuất nông nghiệp miền Bắc có tốc độ phục hồi và phát triển nhanh chóng. Các ngành kinh tế khác cũng dần được phục hồi phát triển. Về ngoại giao, Đảng đề ra những phương hướng lớn[7] làm cơ sở cho quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó nhiệm vụ của ngoại giao trước mắt là “nhằm xây dựng và đề cao thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp xây dựng ở miền Bắc và đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ ở miền Nam”[8]. Đối với cách mạng Việt Nam ở miền Nam, ngay từ tháng 7.1954, trước yêu cầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6, đánh giá sự chuyển biến tình hình, đề ra nhiệm vụ mới, quyết định chủ trương, phương châm, sách lược đấu tranh của cách mạng. Hội nghị chĩ rõ: “Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngǎn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương. Chúng đang ráo riết xúc tiến việc thành lập khối xâm lược Đông Nam Á, dùng Đông Dương làm bàn đạp để mở rộng chiến tranh xâm lược (...). Vì vậy, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Từ đó, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân là “chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hoà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương củng cố hoà bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”. Đảng đề ra phương pháp đấu tranh là “dùng phương pháp thương lượng để lập lại hoà bình ở Đông Dương”[9], chuyển từ đấu tranh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, cải thiện dân sinh, dân chủ.
Về phía địch, sau khi đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền, Mỹ đã tiến hành một loạt các biện pháp đi ngược lại Hiệp định Giơnevơ. Ngày 23.7.1954, tức là chỉ vài ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21.7.1954), Ngoại trưởng Mỹ J. Đalét (John Foster Dulles) tuyên bố: “Từ nay về sau, vấn đề bức thiết không phải là than tiếc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời cơ để việc thất thủ ở miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương”[10]. Tháng 9.1954, Mỹ lôi kéo một số nước đồng minh lập ra khối Liên minh quân sự Đông Nam Á (SEATO) và ngang nhiên đặt Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này. Tháng 11.1954, Mĩ cử tướng Côlin sang làm Đại sứ Mĩ ở miền Nam Việt Nam, mang theo bản kế hoạch vạch ra từ trước ở Oa-sinh-tơn nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược[11]. Được sự chỉ đạo của Mỹ, Ngô Đình Diệm tập hợp lực lượng, hình thành một chính quyền độc tài, gia đình trị, thân Mĩ. Tháng 8.1954, Ngô Đình Diệm thành lập “Đảng cần lao nhân vị” do người em trai là Ngô Đình Nhu cầm đầu. Tháng 10-1954, Ngô Đình Diệm tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia” với mục tiêu hoạt động được xác định là “chống cộng, đả thực, bài phong”: “chống cộng” là tiêu diệt lực lượng cộng sản, lực lượng kháng chiến chống Pháp cũ; “đả thực” là gạt hết lực lượng thân Pháp và ảnh hưởng của Pháp để Mĩ độc chiếm miền Nam; “bài phong” là phế truất Bảo Đại và các thế lực phong kiến để Ngô Đình Diệm nắm quyền. Trên thực tế, sau ngày Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mỹ - Diệm xúc tiến các hành động vi phạm đi đến phá bỏ Hiệp định: tháng 10.1955, tổ chức cái gọi là “cuộc trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại và suy tôn Ngô Đình Diệm lên làm “tổng thống” của “chế độ cộng hòa”; tháng 3.1956, tổ chức bầu cử “Quốc hội lập hiến”; tháng 10.1956 ban hành bản Hiến pháp “Việt Nam Cộng hòa”. Song song với các hành động này, chính quyền quyền Diệm từ chối tiếp xúc với đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa để bàn hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đến thời hạn 2 năm, tháng 7-1956, Ngô Đình Diệm thẳng thừng cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đồng thời, từ giữa năm 1955, Ngô Đình Diệm đẩy mạnh đàn áp cách mạng trên toàn miền Nam, phát động chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” giai đoạn I (tháng 5.1955 đến tháng 5.1956), mở các cuộc hành quân càn quét bắt bớ, giết hại nhiều cán bộ, đảng viên cùng đồng bào vô tội với những hình thức giết người man rợ hòng khuất phục nhân dân miền Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 3.1955) và Hội nghị Trung ương lần 8 (tháng 8.1955) xác định cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ; trong cuộc đấu tranh đó, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, vì “muốn củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc, chúng ta phải có lực lượng. Lực lượng của ta bao gồm toàn quốc, nhưng chủ yếu là ở miền Bắc. Muốn có lực lượng phải ra sức củng cố miền Bắc”[12]. Trong khi xác định rõ vai trò, vị trí của miền Bắc, Hội nghị Trung ương 7 và 8 cũng nhấn mạnh nhiệm vụ đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Có thể thấy rằng, từ rất sớm, Đảng LĐVN đã nhận thức khá đầy đủ vai trò của miền Bắc, coi miền Bắc là chỗ đứng, là cơ sở, là nền, là gốc cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Vì thế, nếu không củng cố miền Bắc, sẽ không có lực lượng để đấu tranh buộc đối phương phải tôn trọng những điều khoản của Hiệp định và cũng không có lực lượng để ủng hộ miền Nam thực hiện thống nhất nước nhà. Củng cố miền Bắc tức là bồi dưỡng lực lượng. Vấn đề củng cố miền Bắc trở thành một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh đó, Hội nghị đồng thời xác định rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ đấu tranh ở miền Nam cũng như mối quan hệ giữa nhiệm vụ củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam: “Để lợi cho việc tranh thủ rộng rãi trong toàn quốc đặng thực hiện thống nhất nước nhà phải luôn luôn chiếu cố miền Nam. Củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam không thể tách rời”; “cần khắc phục tư tưởng sai lầm cho rằng: để chiếu cố miền Nam nên hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc, hoặc chỉ biết củng cố miền Bắc mà không chú ý chiếu cố miền Nam”[13].
Giữa năm 1956, Mỹ - Diệm công khai từ chối hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, triển khai thực hiện giai đoạn 2 “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá có chiều sâu, hòng quét sạch cơ sở Đảng với những khẩu hiệu: “Tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm”, “đạp lên oán thù để thực thi dân chủ, nhân vị quốc gia”. Với sắc lệnh “đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” (5.1957), nhiều biện pháp quyết liệt được áp dụng: Tổ chức học tập “tố cộng” rộng rãi trong nhân dân, trong chính quyền; phân loại quần chúng để phát hiện cơ sở Đảng; tận dụng lực lượng đầu hàng, đầu thú, gián điệp nằm vùng để chỉ điểm truy lùng cán bộ...., cưỡng bức nhân dân “tố giác tội ác của Cộng sản”, gây căm thù đối với Cộng sản, cô lập cán bộ, chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân... Ngoài ra, Mỹ - Diệm còn tập trung lực lượng mở nhiều đợt càn quét, khủng bố, tàn sát đẫm máu nhân dân. Nhiều chiến dịch dài ngày diễn ra trên diện rộng, có trọng điểm, nhất là các chiến khu cũ như chiến dịch “Thoại Ngọc Hầu” (6.1956 đến 10.1956) ở 18 tỉnh miền Tây Nam Bộ, Chiến dịch “Trương Tấn Bửu” (7.1956 đến 12.1956) ở miền Đông Nam Bộ và giáp biên giới Campuchia. Ở vùng miền núi thuộc cực Nam Trung Bộ, Mỹ - Diệm thi hành chính sách “lấy người dân tộc trị người dân tộc” với những trận càn quét kéo dài liên miên. Sự khủng bố điên cuồng của Mỹ - Diệm đã làm cho tình hình miền Nam luôn luôn căng thẳng, nhiều cơ sở đảng bị phá vỡ, hàng vạn quần chúng, đảng viên bị giết hại, bị bắt giam. Cách mạng miền Nam chịu tổn thất nặng nề.
Tình hình trên cho thấy rằng, khả năng thực hiện điều khoản chính trị của Hiệp định Giơnevơ không còn tồn tại nữa. Nhân dân miền Nam không thể chỉ sử dụng đấu tranh chính trị trong khi Mỹ - Diệm đã dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng. Nhân dân miền Nam phải vũ trang đứng lên chống lại kẻ thù.
Trước tình hình đó, tháng 6.1956, Bộ Chính trị ra Nghị quyết xác định tính chất và nhiệm vụ cách mạng miền Nam: “Tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam  là  dân  tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền  Nam  là  phản đế và phản phong kiến”[14]. Nghị quyết cũng chỉ rõ rằng, tuy hình thức đấu tranh trong cả nước hiện nay là đấu tranh chính trị, nhưng như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế, cần "củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện  có  và  xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ  sở  quần  chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì  và  phát  triển lực lượng vũ trang"[15]. Nhấn mạnh đến sự cần thiết phải duy trì, phát triển lực lượng vũ trang, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6.1956 thể hiện bước phát triển mới trong đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam.
Trước hành động Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc như Hiệp định Giơnevơ đã quy định, ngày 6.7.1956, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể đồng bào quyết tâm đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ, ra sức bền bỉ đấu tranh cho một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh: “Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”[16]. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng miền Nam, tháng 8.1956, Lê Duẩn - Uỷ viên Bộ Chính trị đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Đề cương cách mạng miền Nam xác định rõ tính chất của xã hội miền Nam, bản chất độc tài phát xít của chế độ Mỹ - Diệm, chỉ ra kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam lúc này là đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Trên cơ sở đó, Đề cương cách mạng miền Nam đã chỉ rõ ba nhiệm vụ chính làm đường lối chung  cho  toàn  bộ công tác cách mạng hiện nay của toàn quốc:
"1) Củng cố thật vững chắc miền Bắc,
2) Đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam,
3) Tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng  hoà  bình,  dân chủ, độc lập dân tộc trên thế giới"[17].
Đề cương cách mạng miền Nam nói rõ, sở dĩ phải thực hiện các nhiệm vụ  nêu trên, vì củng cố miền Bắc thật  vững  mạnh  mới đảm đương được nhiệm vụ "làm hậu thuẫn cho phong  trào cách mạng giải phóng miền Nam", còn đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở miền Nam, vì đồng bào miền Nam đang rên xiết dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ Mỹ - Diệm, để chống lại Mỹ -Diệm, giải phóng mình, "nhân dân miền  Nam  chỉ  có con đường cứu nước và tự cứu mình, là con  đường  cách  mạng.Ngoài con đường cách mạng không có  một  con  đường khác"[18]. Đề cương cách mạng miền Nam đồng thời khẳng định sự cần thiết phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới, vì đương đầu với thế lực phản động mạnh nhất thời đại, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một bộ  phận  của  phong trào nhân dân tiến bộ trên thế giới, nhất định có được sự  đồng  tình  và ủng hộ của nhân dân thế giới, "do đó mà ta được  thêm  sức  mạnh, địch sẽ bị cô lập và yếu thế, ta có thêm  điều  kiện  thuận lợi để thắng địch, để hoàn thành sự nghiệp  giải  phóng  hoàn toàn dân tộc ta". Bên cạnh đó, Đề cương cách mạng miền Nam cũng nhấn mạnh mối liên hệ gắn bó không thể tách rời giữa ba nhiệm vụ: "Ba nhiệm vụ ấy không  thể  tách  rời nhau được, ba nhiệm vụ ấy liên quan mật thiết  với  nhau.  Có làm tròn ba nhiệm vụ ấy, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta mới đi đến thành công"[19].
Đề cương cách mạng miền Nam dành một nội dung đáng kể xác định mục đích, vị trí và đối tượng của phong trào cách mạng miền Nam, chỉ rõ phong trào cách mạng miền Nam là một bộ phận của phong  trào  cách  mạng chung của đất nước, đẩy mạnh  phong  trào  cách mạng miền Nam là để thực hiện một  trong ba nhiệm vụ chiến lược chung của toàn  quốc. Đường lối cách mạng miền Nam nêu bật mục đích của cách mạng miền Nam là "đánh  đổ  chính  quyền độc tài, phát xít Mỹ - Diệm, thực hiện một  chính  quyền  liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc độc lập,  để  giải  phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong  kiến  độc  tài phát xít Mỹ - Diệm để cùng với toàn quốc  thực  hiện  hoà bình, thống nhất, độc lập dân tộc". Với mục đích như vậy, cách mạng miền Nam không chỉ cùng với toàn quốc đấu tranh thực hiện mục đích chung thống nhất đất nước, "mà còn phải tranh đấu để thực  hiện  mục  đích riêng của mình, tức là tranh đấu tự giải  phóng  ra  khỏi chính quyền đế quốc phong kiến Mỹ - Diệm"[20] và hai mục đích ấy có mối quan hệ chặt chẽ, gắn chặt với nhau làm một, không thể tách rời. Nguyên nhân chính gắn kết hết sức chặt chẽ hai mục đích đó với nhau là bởi vì chỉ trong quá trình tranh đấu của phong trào cách mạng  chung  cả nước chống Mỹ - Diệm vì độc lập, tự do, hoà  bình  thống  nhất mới tạo những điều kiện thuận lợi nhất  cho  nhân  dân miền Nam tranh đấu chống lại những chính  sách  độc  tài phát xít của Mỹ - Diệm; đồng thời, cũng  trong  quá  trình tranh đấu của phong trào cách mạng miền  Nam  chống  lại chính  sách của Mỹ  -  Diệm  để tự giải phóng cho mình, mới tạo những điều kiện  thuận  lợi  cho công cuộc tranh đấu hoà bình, thống nhất  đất  nước.  
Với những quan điểm, tư tưởng cách mạng đúng đắn, những nội dung, nhiệm vụ cụ thể sát với tình hình thực tiễn, giải quyết những vấn đề nóng bỏng của thực tiễn, đáp ứng yêu cầu cách mạng cả nước và cách mạng miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam đã kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo trực tiếp đối với phong trào cách mạng miền Nam đang có nhiều khó khăn, biến động lớn; là cơ sở để Đảng LĐVN tiếp tục xác định, cụ thể hoá đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam trong thời kỳ mới.
 Trong khi cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đang trải qua những ngày tháng cực kì gian khổ, khó khăn, thì tình hình quốc tế liên quan tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn biến phức tạp. Liên Xô tiếp tục theo đuổi chính sách hòa hoãn, cùng tồn tại hòa bình và giữ nguyên hiện trang Việt Nam, còn Trung Quốc kiên trì thuyết phục Việt Nam “trường kỳ mai phục”. Tháng 11.1956, Mao Trạch Đông nói với các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ... Nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”[21]... Quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, vì thế, là một trở ngại đối với quá trình hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam. Vấn đề đặt ra lúc này là phải tìm ra đường lối và phương pháp đúng đắn, phù hợp để vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững hòa bình thế giới, vừa tranh thủ được sự đồng tình của dư luận thế giới, sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc... Đặt trong bối cảnh lúc bấy giờ, đây quả thật là một thách thức lớn, đòi hỏi bộ chỉ huy cách mạng Việt Nam phải có những tính toán, cân nhắc rất cẩn trọng “đường đi nước bước” cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, có những phát hiện liên quan tới đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền Nam, năm 1957, Lê Duẩn được triệu tập ra miền Bắc và được phân công phụ trách những trọng trách cao trong Đảng. Trên cương vị của mình, Lê Duẩn cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng LĐVN tiếp tục quá trình nghiên cứu, xác định đường lối cách mạng miền Nam. Tháng 12.1957, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ta đang đồng thời chấp hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa và riêng ở miền Bắc mà nói thì nhiệm vụ dân tộc dân chủ nhân dân đã căn bản hoàn thành, cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn xã hội chủ nghĩa”[22]. Về mối quan hệ cách mạng hai miền, Người chỉ rằng, “hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng; coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm. Tuy vậy, nhiệm vụ củng cố miền Bắc đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới”[23]. Việc nâng nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam lên ngang hàng nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đặt hai nhiệm vụ chiến lược đó trong quan hệ khăng khít là bước phát triển mới trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, độc lập tự chủ của Đảng LĐVN.
Như vậy, trong những năm đầu miền Bắc giải phóng, bộn bề khó khăn, trước những yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam, Đảng LĐVN đã phân tích điều kiện thực tiễn của đất nước, tình hình thế giới một cách bình tĩnh, khách quan, khoa học, để có đường lối chiến lược, đối sách thích hợp. Lúc này, Đảng LĐVN chủ trương tạm thời giữ cách mạng miền Nam ở thế giữ gìn lực lượng, đấu tranh đòi Mỹ, Diệm thực hiện những điều khoản cơ bản của Hiệp định Giơnevơ, từng bước hiệp thương thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình. Có thể thấy rằng, không một giây buông lơi quyết tâm thống nhất đất nước, song Đảng và Nhà nước Việt Nam ý thức hơn ai hết, lúc này, cuộc đấu tranh ở Việt Nam không đơn thuần chỉ còn mang ý nghĩa của một cuộc "chiến tranh cục bộ", mà ngày càng mang ý nghĩa của sự đối đầu mang tính chất quốc tế. Việt Nam đã và đang trở thành điểm nhạy cảm trong quan hệ của các nước, đặc biệt là của các cường quốc. Muốn đương đầu với đế quốc Mỹ, chiến đấu và chiến thắng, Việt Nam cần nắm bắt các xu hướng vận động của thế giới, của các mối quan hệ quốc tế, đánh giá tình hình trong nước, để trong từng bước đi, trong từng bước phát triển của cách mạng Việt Nam có những quyết sách kịp thời.
Sau năm năm đấu tranh gay go và quyết liệt (1954-1959), tình hình miền Nam ngày càng trở nên căng thẳng bởi sự phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cản trở hiệp thương thống nhất Việt Nam của Mỹ - Diệm. Những năm tháng ấy, đồng bào miền Nam đã chịu đựng biết bao đau thương và tổn thất; hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên bị giam cầm, tra tấn và bắt giết, nhưng lòng yêu nước và ý chiến chiến đấu của đồng bào không hề bị giảm sút, phong trào phát triển ngày càng mạnh. Năm 1957, có hai triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, đến năm 1958 có 3,7 triệu và sang năm 1959, đã lên tới gần 5 triệu. Trong khi đó, cuộc đấu tranh vũ trang tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng được đẩy mạnh và nhiều đơn vị vũ trang cách mạng đã ra đời. Trải qua đấu tranh, các cán bộ, đảng viên và đồng bào được tôi luyện, phong trào cách mạng tuy phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng, song vẫn được giữ vững và phát triển. Lúc này, chế độ thống trị Mỹ - Diệm lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Đông đảo nhân dân miền Nam ngày càng thấy rõ không thể nào kéo dài cuộc sống tù ngục dưới chế độ Mỹ - Diệm hơn nữa, quyết tâm vùng lên đấu tranh một mất, một còn. Điều kiện đã chín muồi để chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Bắt mạch được tình hình đó, tháng 1 -1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 (khoá II) dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh, để xác định đường lối cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị ra nghị quyết lịch sử, chỉ rõ: "Do sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam, nước ta bị  tạm  thời  chia làm hai miền: Miền Bắc đã được giải phóng và  độc  lập  hoàn toàn, còn miền Nam vẫn là một thuộc địa (kiểu  mới)  của  đế quốc Mỹ"[24]. Đế quốc Mỹ thông qua chính quyền Ngô Đình Diệm để thực hiện chính sách của mình. Thành phần cốt cán trong chính quyền Ngô Đình Diệm là những lực lượng phong kiến, tư sản mại bản. Song, nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, nhân dân Việt Nam quyết không chịu làm nô lệ và đứng lên tranh đấu đến cùng, giải phóng đất nước, thống nhất non sông. Những đặc điểm tình hình trên đây làm nổi bật lên hai mâu thuẫn cơ bản mà cách mạng Việt Nam phải giải quyết: "1). Mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược,  giai  cấp  địa chủ phong kiến, và bọn tư sản mại bản quan  liêu  thống  trị ở miền Nam và một bên là dân tộc Việt Nam,  nhân  dân  cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc  và  nhân  dân miền Nam; 2). Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường  tư  bản  chủ nghĩa ở miền Bắc"[25]. Nghị quyết cũng chỉ rõ rằng, đó là hai mâu thuẫn tính chất khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng  với  nhau  và tác động mạnh mẽ lẫn nhau. Những mâu thuẫn này thể hiện sự đối kháng rất gay  gắt  giữa  một bên là lực lượng của dân tộc Việt Nam mong muốn hoà  bình,  thống  nhất, độc lập, dân chủ và một bên là thế lực  đế quốc gây chiến và chia cắt đất nước; đồng thời, thể hiện sự đối kháng rất gay  gắt  giữa  lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, hoà  bình,  dân  chủ trên thế giới với thế lực đế quốc hiếu chiến,  xâm  lược ở khu vực Đông Nam Á và  Thái  Bình  Dương.
Căn cứ vào sự phân tích trên đây, Hội nghị Trung ương lần  thứ  15  nhận định rằng, hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng  LĐVN  lãnh  đạo có hai nhiệm vụ chiến lược: "Cách mạng  xã  hội  chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ  nhân  dân  ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính  chất  khác  nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song  tiến  hành,  ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ  cho  nhau,  nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình,  thực  hiện  thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để  đưa  cả  nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội"[26], trong đó, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã giành được, là xây dựng cơ sở  vững  chắc  để thực hiện thống nhất nước nhà, còn tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ  chế  độ  đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam là  nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam ở miền  Nam,  là  giải phóng nhân dân miền Nam, đồng thời cũng  là  vì  yêu cầu của cách mạng cả nước là phải tích cực chống  Mỹ  -  Diệm để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa - cơ sở vững  chắc  của  công cuộc thực hiện thống nhất, hoàn thành độc  lập  và  dân chủ trong cả nước. Đó chính là "quan hệ biện chứng  giữa  công  cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và  việc  hoàn  thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, giữa  sự  nghiệp  hoà bình thống nhất nước nhà và cuộc đấu tranh  cách  mạng  đánh đổ ách thống trị của Mỹ - Diệm ở miền  Nam"[27].
Căn cứ vào thực tiễn cách mạng miền Nam, Nghị quyết 15 đã xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam, khẳng định: Miền Nam dưới ách thống trị của Mỹ - Diệm là một chế độ cực kỳ phản động và tàn bạo, cho nên ngoài con đường đấu tranh cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ. Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến. Như vậy, Nghị quyết Trung ương 15 chủ chương lấy sức mạnh bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng nhân dân; khẳng định cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài và nhất định đi tới thắng lợi cuối cùng.
Nghị quyết Trung ương 15 ý nghĩa lịch sử to lớn, đã chỉ ra một cách toàn diện con đường tiến lên của cách mạng miền Nam, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nghị quyết 15 ra đời với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam, làm xoay chuyển tình thế và mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết đáp ứng nguyện vọng tha thiết của đồng bào miền Nam, là ngọn cờ tập hợp đông đảo nhân dân miền Nam vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ, giành quyền làm chủ. Với Nghị quyết 15- bó đuốc soi đường cho cách mạng miền Nam, cách mạng miền Nam đã có một bước chuyển căn bản về chất. Dưới ánh sáng của Nghị quyết, ngọn lửa cách mạng âm ỉ suốt nhiều năm đã bùng lên thành cuộc "Đồng khởi" trên quy mô rộng lớn, tạo nên một bước chuyển mới có tính chất nhảy vọt của cách mạng miền Nam. Từ cuối năm 1959 đến đầu năm 1960, đồng bào miền Nam đã dùng bạo lực cách mạng bất ngờ tiến công dồn dập và mãnh liệt vào khâu yếu nhất của đối phương là chính quyền cơ sở ở nông thôn. Một số cuộc nổi dậy nổ ra ở vùng rừng núi miền Trung Trung Bộ. Đặc biệt, làn sóng nổi dậy đồng loạt nhanh chóng lan rộng  và dâng cao ở các tỉnh Nam Bộ. Nhân dân vùng lên diệt ác ôn, đánh đồn bốt, cướp súng địch, làm tan rã từng mảng chính quyền địa phương cùng bộ máy kìm kẹp ở thôn, xã, làm chủ được nhiều khu vực ở rừng núi và nông thôn nằm sâu phía sau lưng địch. Đồng bào ở những nơi đó nô nức thành lập chính quyền cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang chống lại các cuộc phản kích, tạo nên một hình thức căn cứ địa, có nơi hình thành thế liên hoàn bao gồm các vùng giải phóng và vùng du kích. Phong trào đấu tranh chính trị bền bỉ từ những năm trước được đấu tranh phối hợp càng trở nên mạnh mẽ: năm 1960, có hơn 10 triệu lượt người và năm 1961 đã lên tới 33 triệu lượt người tham gia các cuộc đấu tranh. Trong cao trào cách mạng, ngày 20 -12 -1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới - thời kỳ cách mạng miền Nam chuyển hẳn sang thế tiến công mạnh mẽ, rộng khắp và liên tục. Phong trào "Đồng khởi" thực chất là những cuộc khởi nghĩa từng phần của nhân dân để giành quyền làm chủ ở từng địa phương thuộc vùng nông thôn miền núi và đồng bằng đã giáng cho Mỹ - Diệm một đòn nặng, đẩy Mỹ - Diệm vào một thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng và triền miên. Đến đây, kế hoạch của đế quốc Mỹ muốn nhanh chóng “bình định” miền Nam bằng quốc sách “tố cộng, diệt cộng” đã bị thất bại.
Tuy nhiên, đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ mục tiêu lâu dài. Tháng 11.1961, G. Kennơdi lên thay Đ. Aixenhao làm Tổng thống Mỹ đã tuyên bố: “...sẽ trả bất cứ giá nào, đương đầu với bất cứ khó khăn nào để giữ bằng được miền Nam Việt Nam”. Ỷ vào sức mạnh quân sự, đế quốc Mỹ đã tăng cường can thiệp vũ trang, lấy miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm“chiến tranh đặc biệt”, một bộ phận quan trọng của chiến lược “phản ứng linh hoạt”- chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ trong những năm 60 (XX). Có thể nói, cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ đã phát động ở miền Nam Việt Nam là cuộc phản công lớn nhất chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trước trước khả năng chiến tranh lan rộng và ngày càng trở nên khốc liệt, nhiệm vụ cấp bách lúc này đặt ra cho cách mạng Việt Nam, cho bộ não lãnh đạo cách mạng là phải nhanh chóng hoàn thiện đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, định hướng, chỉ đạo cách mạng Việt Nam tiến lên hoàn thành mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do, hòa bình một cách thực sự.
Nhìn chung lại, trong những năm 1954-1959, ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đến khi phong trào "Đồng khởi" nổ ra và lan rộng mạnh mẽ, Đảng LĐVN đã bám sát tình hình thực tiễn, những diễn biến, sự vận động nội tại của phong trào cách mạng Việt Nam và trên thế giới, phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, phân tích so sánh lực lượng, để đưa ra những quyết sách lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện vừa có những thuận lợi cơ bản, song cũng có những thách thức, khó khăn vô cùng to lớn. Trong từng bước đi lên của cách mạng, Đảng LĐVN kịp thời xác định những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến thành bại của cách mạng, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chiến lược và sách lược cho cách mạng cả nước, cũng như cách mạng từng miền. Đó là mục tiêu bất di, bất dịch thực hiện hòa bình, dân chủ, độc lập, tự do trong cả nước. Trong chiến lược chung ấy, thực hiện củng cố miền Bắc thành nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà được coi là nhiệm vụ quan trọng, phải thực hiện đồng thời với nhiệm vụ đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó cũng là những nhận thức quan trọng được Đảng LĐVN đúc rút qua quá trình tìm tòi, tổng kết thực tiễn những năm tháng đấu tranh gian khổ và hy sinh xương máu 1954-1959, trở thành cơ sở để Đảng hoạch định đường lối cứu nước độc lập, tự chủ, nhằm hoàn thành mục tiêu thiêng liêng của dân tộc: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
 Bước sang năm 1960, về căn bản, miền Bắc đã hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến, giải phóng và thực hiện các quyền dân chủ về ruộng đất cho người nông dân; tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957), đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958-1960). Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh đã hoàn thành. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trên đà phát triển, sự nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Thắng lợi của sự nghiệp củng cố miền Bắc là nguồn động viên to lớn để nhân dân miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Ở miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết 15 (1.1959), một phong trào "Đồng khởi" mạnh mẽ bùng dậy. Sau thắng lợi của phong trào "Đồng khởi", đặc biệt là sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm ngày càng phát triển. Nhân dân cả nước một lòng phấn đấu và được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới.
Bước vào Nhà trắng, Tổng thống Đảng Dân chủ G. Kennơdi thay đổi chiến lược toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”. Đầu những năm 1960, để đối phó với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, Mỹ đưa thêm lực lượng đặc biệt vào Việt Nam, tăng cường viện trợ quân sự. Từ năm 1961, Mỹ đã lập Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự (MACV); ngày 15.5.1962, Mỹ đưa quân vào Thái Lan. Số quân của Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã tăng dần từ 3.000 lính vào tháng 12.1960 đến 23.000 vào tháng 12.1964[28]. Dùng lực lượng quân đội Sài Gòn với cố vấn và vũ khí hiện đại, Mỹ càn quét, bình định, dồn dân hòng tiêu diệt Quân giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, trên chiến trường miền Nam, đấu tranh vũ trang ngày càng phát triển nhanh chóng, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, đẩy đế quốc Mỹ và chế độ Sài Gòn vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng triền miên.
Trước những chuyển biến của tình hình, đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng LĐVN (9.1960) nhóm họp và xác định nhiệm vụ cách mạng:  "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh  giữ  vững  hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa  ở  miền  Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân  chủ  nhân  dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà  trên  cơ  sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam  hòa  bình,  thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết  thực  góp  phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ  hòa  bình  ở Đông - Nam Á và thế giới"[29]. Đại hội chỉ rõ: hiện nay, do đế quốc Mỹ xâm chiếm miền Nam, Việt Nam đang  tạm  thời  bị chia làm hai miền. Miền Bắc hoàn thành những  nhiệm  vụ  của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã  bước  vào  thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam  còn  đang  bị chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến thống  trị. Tình  hình ấy đã hình thành ở Việt Nam hai khu vực có  chế  độ  chính trị và xã hội khác nhau; đồng thời, cũng quy định cách mạng Việt  Nam  trong  giai đoạn hiện nay có hai nhiệm vụ thuộc hai  chiến  lược  khác nhau: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Một vấn đề mang tính nguyên tắc được Đại hội III chỉ rõ là muốn bảo đảm cho cuộc đấu tranh  cách  mạng  của nhân dân Việt Nam đi tới đích cuối cùng, giành được thắng lợi hoàn  toàn,  "phải nhận rõ bản chất của nhiệm vụ cách  mạng  ở  mỗi miền"[30]. Đại hội III giải thích: Đưa  miền  Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội chính là đáp ứng yêu cầu khách  quan  của  xã hội miền Bắc trên bước đường phát triển, đồng  thời  cũng  đáp ứng nguyện vọng thiết tha của bản thân giai cấp  công  nhân  và nhân dân lao động miền Bắc. Hơn nữa, đưa miền  Bắc  tiến  lên chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là yêu cầu cấp  bách  của  xu thế phát triển cách mạng ở miền Bắc, mà còn  là  yêu  cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong cả nước.  Chỉ  có  đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới có  thể  củng  cố và phát triển những thắng lợi cách mạng đã giành  được,  làm  cho miền Bắc vững mạnh về mọi mặt, trở thành nền tảng, gốc rễ, căn cứ địa cách mạng của cả nước, thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền Nam. Miền Bắc còn là cơ sở để Đảng và Nhà nước thực hành, mở rộng quan hệ đối ngoại, nhằm tranh thủ rộng rãi sự đoàn kết, đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra, miền Bắc với chế độ xã hội ưu việt với một nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá dân tộc và hiện đại, một nền an ninh - quốc phòng không ngừng lớn mạnh là niềm cổ vũ mạnh mẽ đồng bào ở miền Nam, là sức mạnh tập hợp tất cả những người yêu nước, tiến bộ vì một tương lai tươi sáng của dân tộc, tạo điều  kiện  thuận  lợi cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước  nhà. "Phương châm của chúng ta trong  khi  tiến  hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là:  Xây  dựng  miền Bắc, chiếu cố miền Nam"[31]. Còn tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam tức là giải quyết  hai  mâu  thuẫn cơ bản tồn tại trong xã hội miền Nam. Đó là mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với đế  quốc  xâm lược, trước hết là đế quốc Mỹ, cùng tay và mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước  hết  là  nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Những mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, bởi vì chính quyền độc tài phát xít miền Nam dưới sự bảo trợ của Mỹ đang hàng ngày, hàng giờ áp bức, bóc lột, khủng bố, tàn sát nhân  dân  miền  Nam. Để bảo vệ  sinh  mạng  và quyền lợi thiết thân của mình, nhân dân miền  Nam  không  có con đường nào khác ngoài con đường đánh  đổ  chế  độ độc tài phát xít của Mỹ - Diệm, hoàn toàn giải  phóng  miền  Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần  xây  dựng  một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,  dân  chủ  và giàu mạnh.
Không chỉ cần hiểu rõ, nắm vững bản chất nhiệm vụ cách mạng từng miền để có biện pháp, cách thức thực hiện đúng đắn, hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng, vấn đề "đồng thời phải nắm vững quan hệ giữa  hai  nhiệm  vụ cách mạng ở hai miền trong quá trình phát  triển  của  cách mạng"[32] là hết sức cần thiết. Bởi vì, trong điều kiện hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai  chiến  lược  khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu  cụ  thể  của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia  cắt  làm  hai, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục  tiêu  chung  là thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm  giải  quyết  mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc Mỹ, thì việc xác định đúng đắn vị trí và trách nhiệm của cách mạng mỗi miền  sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi cách mạng mỗi miền, cũng như thắng lợi cách mạng chung cả nước. Chỉ có xác định đúng đắn vị trí cách mạng mỗi miền, mới có một quan điểm toàn diện về nội dung và nhiệm  vụ  của  cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, mới  có  chủ  trương, phương châm, kế hoạch, biện pháp đúng đắn  để  tiến  hành thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề, Đại hội III chỉ rõ rằng, hai nhiệm vụ này có mối "quan hệ mật thiết với  nhau,  ảnh  hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển"[33]. Về vai trò, vị trí của mỗi nhiệm vụ chiến lược, Đại hội III khẳng định: "Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa  ở  miền  Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát  triển  của  toàn bộ cách mạng nước ta và sự nghiệp thống nhất  nước  nhà"[34], còn cách mạng miền Nam có "tác dụng  quyết  định  trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện  hòa  bình  thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách  mạng  dân  tộc dân chủ nhân dân trong cả nước"[35].
Đại hội cũng xác định cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là một quá trình  đấu  tranh  cách mạng gay go, lâu dài, gian khổ, phức tạp và là cuộc đấu tranh chính nghĩa, "là  một bộ phận tích cực của phong trào quốc tế đấu tranh  cho  chủ  nghĩa xã hội, độc lập dân tộc và hòa bình thế giới.  Cuộc  đấu  tranh ấy, một mặt được phong trào chung trên thế  giới  cổ  vũ và giúp đỡ, mặt khác, cũng góp phần thúc đẩy phong  trào  chung"[36], vì thế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ mọi sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần tích cực đấu tranh bảo vệ và củng cố hòa bình thế giới.
Một cách tổng quát, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng là một sự kiện chính trị quan trọng, là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Đại diện cho ý chí của toàn Đảng, toàn dân, Đại hội đã phân tích đặc điểm, tình hình và yêu cầu cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện thắng lợi đường lối và những nhiệm vụ cách mạng do Đại hội thông qua là trách nhiệm, yêu cầu sống còn trong giai đoạn cách mạng mới; đồng thời cũng là hoàn thành nhiệm vụ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình để đạt được mục tiêu độc lập, hoà bình, thống nhất mà không xảy ra chiến tranh. Song, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đã sử dụng mọi biện pháp chống lại sự nghiệp giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ đã thông qua bộ máy chính quyền tay sai ở miền Nam, dùng mọi biện pháp, thủ đoạn nham hiểm, để lật đổ, đàn áp, gây chiến tranh một phía, từ giấu mặt đến công khai gây chiến tranh chống lại nhân dân Việt Nam. Chính quyền tay sai ở miền Nam được Mỹ nuôi dưỡng, hỗ trợ, ngang nhiên hô hào “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”. Như vậy, nhân dân Việt Nam trước sau như một muốn sống trong hoà bình để xây dựng đất nước, nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã dùng chiến tranh để chống lại nguyện vọng độc lập, hoà bình, thống nhất Tổ quốc của cả dân tộc, đánh phá phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam. Nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực chống đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Việc đế quốc Mỹ chọn Việt Nam - một địa bàn chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương làm nơi áp dụng chiến lược toàn cầu “phản ứng linh  hoạt”, chống chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới, gây chiến tranh quy mô lớn đã thách thức ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của nhân dân Việt Nam. Trong điều kiện đó, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được xác định tại Đại hội III Đảng LLĐVN thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân kiên trì thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Chuyên luận là một phần nội dung của chương 38, sách "Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, 1954-1975", Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ





[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 614.

[2] Thomas J. McCormick, Nước Mỹ nửa thế kỉ - Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.296-297.

[3] Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt từ sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (1949) và sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) kết thúc, vấn đề Việt Nam ngày càng ám ảnh giới lãnh đạo nước Mỹ. Bởi lẽ, là một cường quốc đang theo đuổi chiến lược thống trị toàn cầu, giới lãnh đạo Mỹ quan niệm rằng: “Việc để mất bất cứ một nước nào ở Đông Nam Á vì hành động xâm lược của Cộng sản sẽ có một hậu quả tâm lí, chính trị và kinh tế nghiêm trọng. Trong trường hợp thiếu sự phản ứng có hiệu quả và kịp thời, việc mất bất cứ một nước riêng lẻ nào đó chắc chắn sẽ dẫn tới các nước còn lại trong nhóm này quy phục một cách tương đối nhanh chóng hoặc đi theo chủ nghĩa cộng sản”. Trong mắt giới lãnh đạo Mỹ, “ách thống trị của cộng sản... trước mắt sẽ gây nguy hại nghiêm trọng và về lâu dài, nguy hại một cách nguy kịch đến lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ”. Tuyên bố của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Về các mục tiêu và đường lối hành động của Mỹ ở Đông Nam Á đầu năm 1952. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX dịch và phát hành, tháng 8.1971, tập 1, tr.39.

[4] Dẫn theo Tiến sĩ Triết học, GS, Trung tướng Đ. A. Vôn-cô-gô-nốp (Chủ biên), Học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, Nxb QĐND, 1998, tr. 66.

[5] Nghị quyết của Bộ Chính trị Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng (tháng 9-1954). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15 (1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.283.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15 (1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 294-295.

[7] Bao gồm 6 phương hướng lớn: 1 - Đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương; 2 - Xây dựng quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện và chặt chẽ giữa Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa, cũng như góp phần củng cố đoàn kết và hợp tác giữa các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; 3 - Tăng cường đoàn kết và hợp tác trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; 4 - Xây dựng quan hệ hữu nghị với hai chính phủ Vương quốc Lào, Campuchia theo nguyên tắc chung sống hòa bình, thúc đẩy quan hệ hợp tác với chính phủ Pháp, tăng cường quan hệ đoàn kết và hữu nghị với nhân dân Pháp; 5 - Tăng cường tình đoàn kết chiến đấu với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á - Phi, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước vừa giành được độc lập; 6 - Tích cực tham gia phong trào của các lực lượng tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới, chống các lực lượng đế quốc thực dân hiếu chiến, ủng hộ cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Xem Ngoại giao Việt Nam (1945 - 2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.168 - 169.

[8] Ngoại giao Việt Nam (1945 - 2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.169.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 225.

[10] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr.118.

[11] Bản kế hoạch gồm 6 điểm chính: - Tìm cách hất cẳng Pháp và các lực lượng thân Pháp nhằm độc chiếm miền Nam Việt Nam; - Tiêu diệt lực lượng cộng sản, lực lượng kháng chiến, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chia cắt lâu dài nước Việt Nam; - Ra sức giúp đỡ Ngô Đình Diệm xây dựng được một chính quyền “hợp pháp”, “hợp hiến”, đứng vững được về mặt chính trị, quân sự, kinh tế; - Giúp đỡ trang bị, huấn luyện để xây dựng một quân đội của Diệm đủ mạnh nhằm đủ sức đương đầu với thách thức của cộng sản; - Đẩy mạnh cải cách kinh tế, biến miền Nam Việt Nam thành thị trường tiêu thụ của Mĩ; - Dành ưu tiên cho hành hóa Mĩ và thực hiện việc phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16 (1955), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 35, 485.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16 (1955), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 485.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 224.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 228.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 277.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 784.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 785.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 786.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Sđd, tr. 787.

[21] Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua (In lần thứ hai), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tr. 37.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18 (1957), Sđd, tr. 771, 772, 773.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18 (1957), Sđd, tr. 773.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20 (1959), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 59.

[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20 (1959), Sđd, tr. 60, 62.

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20 (1959), Sđd, tr. 62.

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20 (1959), Sđd, tr. 62.

[28] Quan hệ Việt- Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 17.

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20 (1959), Sđd, tr. 512, 505.

[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 505.

[31]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 507, 505.

[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 505.

[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 511.

[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.

[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 612.

[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 612.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!