Chiến tranh là sự tổng hợp tất cả các mặt đấu tranh quân
sự , kinh tế, chính trị, ngoại giao, tư tưởng, văn hoá… của các bên đối chiến.
Các mặt đấu tranh đó tuy đều liên quan mật thiết với nhau, chi phối, tạo điều
kiện thúc đẩy lẫn nhau nhưng đấu tranh vũ trang là đặc trưng cơ bản của chiến
tranh. Nghệ thuật quân sự, hiểu một cách chung nhất, là nghệ thuật chỉ đạo các
hoạt động đấu tranh vũ trang trong chiến tranh, là một bộ phận rất quan trọng
của phương thức tiến hành chiến tranh và của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Như
thế, nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nghệ thuật chỉ
đạo các hoạt động đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh nhân dân trên cả hai
miền Nam, Bắc.
Kế thừa thành quả và kinh nghiệm của kháng chiến chống
thực dân Pháp, Chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã phát triển lên một tầm cao mới với
nội dung và hình thức đấu tranh hiệu quả và rất phong phú. Đó là cuộc chiến
tranh toàn dân, toàn diện nhằm mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
thống nhất đất nước. Lực lượng tiến hành chiến tranh là “toàn dân đánh giặc,
gồm lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt và lực lượng chính trị
quần chúng: lực lượng chính trị quần chúng vừa là cơ sở để xây dựng, phát triển
lực lượng vũ trang, vừa là chỗ dựa vững chắc để lực lượng vũ trang hoạt động
tác chiến , vừa phối hợp với lực lượng tiến công, phản công quân địch… Trong
kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, lực lượng chính trị được tổ chức thành những
đội quân chính trị trong đó có bộ phận xung kích của phụ nữ là đội quân tóc
dài”[1]. Phương
thức tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không
chỉ bó hẹp trong hoạt động đấu tranh vũ trang (mà nghệ thuật chỉ đạo tiến hoạt
động đó chính là nghệ thuật quân sự). Phương thức đó còn có phạm vi rộng lớn
hơn, tầm vóc cao hơn. Một cách tổng quát, có thể thấy rằng, phương thức tiến
hành chiến tranh nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “cả nước tổ
chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi
làng xã, đường phố là một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu,
phát huy sức mạnh tổng hợp của của sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang trên cả 3 vùng chiến lược, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị
và binh vận (3 mũi giáp công), kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu
tranh ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp
tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ, chiến tranh du kích với chiến
tranh chính quy, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng
các binh đoàn chủ lực”.
Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước được tiến hành dựa trên cơ sở của đường lối, phương châm và chiến
lược tổng hợp của chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, nhằm tạo nên sức
mạnh hiện thực để đánh thắng chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Đó là sự phát triển phương pháp cách mạng và phương thức tiến hành chiến tranh
trên hai miền Nam, Bắc, phù hợp với sự phát triển của hai chiến lược cách mạng
(cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc) và gắn bó chặt chẽ với quá trình cách mạng và chiến tranh cách mạng
của ba nước Đông Dương trong xu thế phát triển mạnh mẽ của các trào lưu cách
mạng thời đại. Đó còn là nghệ thuật kết hợp tiến công địch ở miền Nam với bảo
vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ trên
vùng trời, vùng biển miền Bắc với tăng cường sức mạnh mọi mặt cho miền Nam;
phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường Nam Bắc Việt Nam với chiến trường hai
nước bạn Lào và Campuchia trên một thế chiến lược tiến công của nhân dân ba
nước Đông Dương.
Trong toàn bộ nội dung trên của chiến tranh nhân dân thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đấu tranh vũ trang và nghệ thuật điều hành
nó – tức nghệ thuật quân sự chỉ là một bộ phận cấu thành cơ bản và là đặc trưng
nổi bật của toàn bộ cuộc chiến tranh này. Dưới đây, sẽ chỉ mới đề cập nghệ thuật
quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam ở miền Nam trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Quá trình vận động, phát triển của đấu tranh vũ trang và
nghệ thuật điều hành mặt đấu tranh này gắn bó với các giai đoạn phát triển của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nói cách khác, trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam, trên cơ sở kế
thừa thành quả và kinh nghiệm của nghệ thuật quân sự thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp gồm 3 bộ phận hợp thành là chiến
lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, đã phát triển lên một
trình độ cao hơn, trước một đối tượng tác chiến mới chiếm ưu thế về về số
lượng, trang bị vũ khí là quân đội Sài Gòn, quân Mỹ và quân đội một số đồng
minh của Mỹ.
Chiến lược quân sự:
Chiến lược quân sự là lĩnh vực cao nhất, có địa vị chủ
đạo của nghệ thuật quân sự. Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đề ra cho chiến lược
quân sự nhiều vấn đề có tính nguyên tắc về chuẩn bị lực lượng và kế hoạch, về
chỉ đạo nhiệm vụ chiến lược trong đấu tranh vũ trang, đánh thắng địch về quân
sự, đánh bại ý chí xâm lược của chúng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện
thắng lợi mục đích chính trị của cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Chiến lược quận sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam ở
miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là chiến lược tiến công. Đó là
chiến lược toàn dân đánh giặc dựa vào sức mạnh tổng hợp của hai lực lượng quân
sự và chính trị, dựa vào sự kết hợp hai hình thức đấu tranh quân sự và chính
trịm, kết hợp giữa tác chiến của lực lượng vũ trang với khởi nghĩa quần chúng
cách mạng; là chiến lược tiến công bằng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích), trên cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng
bằng, đô thị); kết hợp giữa đánh địch với giành quyền làm chủ, làm chủ để tiêu
diệt địch và tiêu diệt địch để làm chủ ngày càng vững chắc hơn. Đó còn là chiến
lược luôn giành thế chủ động và quyền chủ động tiến công địch về mặt quân sự,
tiến công một cách tích cực, kiên quyết và liên tục ở mọi nơi, mọi lúc, buộc
địch phải đánh theo cách đánh của ta, hạn chế tối đa sở trường của địch .
Khả năng tiến công của quân và dân ta cả ở chiến trường
miền Nam (cũng như trên vùng trời, vùng biển miền Bắc), dựa trên sự đánh giá
tương quan lực lượng giữa ta và địch theo quan điểm cách mạng và khoa học, đặc
biệt là đánh giá chính xác sức mạnh và khả năng thực tế của địch trong chiến
tranh, ngay tại chiến trường; đánh giá đúng ưu thế về sức mạnh tổng hợp của
chiến tranh cách mạng, của con người Việt Nam, truyền thống văn hoá Việt Nam;
vận dụng và phát huy hiệu lực các phương thức thiến công của các lực lượng trên
các mặt đấu tranh ở cả 3 vùng chiến lược, ở miền Nam (và trên vùng trời, vùng
biển miền Bắc); tận dụng thế trận tiến công tổng hợp rất hiểm của chiến tranh
nhân dân để đánh địch một cách chủ động, linh hoạt và hiệu quả ngay trên đất
đai Tổ quốc mình.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến lược
quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam ở miền Nam gồm những nội dung chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, đó là nghệ thuật kết hợp chiến tranh du kích và
chiến tranh chính quy. Kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, đặc biệt là
những kinh nghiệm tích lũy được trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp,
tốc độ phát triển từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy và hình thái
kết hợp giữa hai loại hình chiến tranh này trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, trên từng vùng chiến lược ở miền Nam và trong cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc, có những bước phát triển mới, rất sáng tạo và đạt
hiệu quả cao.
Thứ hai, đó là nghệ thuật
kết hợp các phương thức tác chiến chiến lược của chiến tranh nhân dân đánh
thắng các biện pháp chiến lược của địch từ càn
quét, bình định trong những năm 1955 – 1964, “tìm diệt” và bình định trong
những năm 1965-1968, “chiến tranh giành dân” trong những năm 1969-1972, “lấn
chiếm và bình định” trong hai năm 1973, 1974. Phương thức tác chiến chiến lược
đó bao gồm 6 nội dung:
- Đẩy mạnh hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực bằng
các chiến dịch vừa và lớn.
- Đẩy mạnh chiến tranh du kích lên trình độ cao.
- Đánh phá căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, bến cảng,
cơ quan đầu não địch.
- Triệt phá đường giao thông thuỷ bộ, tạo thế bao vây,
chia cắt…
- Đẩy mạnh hoạt động ở đô thị bằng cả quân sự và chính
trị.
- Tác chiến kết hợp với binh vận…
Thứ ba, đó là nghệ thuật tổ
chức , bố trí lực lượng và thế trận mạnh, hiểm trên chiến lược tiến công, kết
hợp tiêu diệt địch để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch và mở rộng không ngừng
quyền làm chủ của nhân dân ta trên cả ba vùng chiến lược.
Thứ tư, đó là nghệ thuật kết
hợp các nhân tố thế, lực và thời cơ, hình thành thế mạnh, đánh địch bất ngờ.
Thứ năm, đó là nghệ thuật kết
hợp giữa tiền tuyến với hậu phương, giữa đánh địch trong cuộc chiến tranh trên
bộ ở miền Nam với chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ ở miền Bắc
và chiến tranh ngăn chặn của Mỹ trên tuyến vận chuyển chiến lược Bắc, Nam,
bảo vệ vững chắc mền Bắc, giữ vững và phát triển nguồn chi viện toàn diện, mạnh
mẽ, liên tục cho chiến trường miền Nam.
Thứ sáu, đó là nghệ thuật
phối hợp chiến đấu với quân đội Lào, Campuchia, thực hiện Đông Dương-một chiến
trường đánh Mỹ.
Toàn bộ nội dung trên đây của chiến lược quân sự được
quán xuyến trong quá trình xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho từng giai
đoạn cũng như toàn bộ cuộc chiến tranh, trong đó, việc chọn hướng tiến công
chiến lược chủ yếu và việc xác định nguyên tắc tác chiến của lực lượng vũ trang
trên hướng đó là nội dung quan trọng bậc nhất của kế hoạch tác chiến chiến
lược- một bộ phận hợp thành của chiến lược quân sự. Giải quyết các nội dung
trên đây của chiến lược quân sự, ở từng giai đoạn cũng như trong toàn bộ 21 năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã tổ chức và thực hiện thành công các
hoạt động tác chiến chiến lược, các đòn tiến công và phản công chiến lược, tạo
nên những bước chuyển lơn, làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta và
bất lợi cho đối phương.
Đó là việc Đảng LĐVN quyết định chuyển cách mạng miền Nam
từ Đồng khởi tiến lên thành chiến tranh cách mạng, đưa cách mạng miền Nam từ
thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công về chiến lược. đó còn là hoạt động
tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng trong Đông Xuân 1964 -
1965 với những chiến dịch khởi đầu như Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài làm nòng
cốt, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” khi quân đội Sài Gòn còn nguyên vẹn 11
sư đoàn bộ binh. Trong những năm Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, VNDCCH mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đánh bại cố gắng chiến
tranh cao nhất của Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh. Cuộc
phản công có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận Đường 9-Nam Lào (Xuân 1971) của
ta đã đánh thắng một bước quan trọng về quân sự chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh” của Mỹ. Tiếp đó, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với ba chiến
dịch tiến công ở Quảng Trị, An Lộc, Kon Tum và hai chiến dịch tổng hợp Khu 5,
Khu 8 đã làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam. Thắng lợi này cùng với
chiến thắng trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng đập tan cuộc tập kích chiến lược
của không quân Mỹ đã buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri. Trên đà thắng lợi,
đầu năm 1975, ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thu non sông về một mối, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước…
Những hoạt động tiến công và phản công chiến lược nêu
trên thể hiện hiệu lực chiến lược quân sự Việt Nam cũng như sự tài giỏi trong
việc tổ chức, điều hành của các cơ quan chỉ đạo chiến lược trên mặt trận đấu
tranh quân sự nói riêng, trên các mặt đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao
nói chung. Đó là một chiến lược quân sự tiến công chủ động, đầu sáng tạo; một
chiến lược quân sự của toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang 3 thứ quân làm
nòng cốt, phối hợp chặt chẽ hành động tác chiến của lực lượng vũ trang với đấu
tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng cách mạng và đó cũng là cơ sở để giải
quyết thành công những vấn đề thuộc về nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật trên
chiến trường miền Nam.
2. Nghệ thuật chiến
dịch
Nghệ thuật chiến dịch là một bộ phận trong thể thống nhất
và hoàn chỉnh của nghệ thuật quân sự. Về hình thức, nó là khâu trung gian nối
giữa chiến lược quân sự với chiến thuật; về nội dung, nó có tính chất độc lập
tương đối, sử dụng các hoạt động chiến thuật của bộ đội để hoàn thành nhiệm vụ
mà chiến lược quân sự đặt ra. Một cách tổng quát, nghệ thuật chiến dịch nghiên
cứu và giải quyết các vấn đề về chuẩn bị, tổ chức, chỉ huy chiến dịch quân sự;
về sắp xếp các trận chiến đấu của lực lượng vũ trang 3 thứ quân; về việc kết
hợp hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang với hoạt động của các mặt đấu
tranh khác – mà trước hết là đấu trang chính trị, làm cho các trận chiến đấu và
các mặt hoạt động khác diễn ra trong mối liên quan mặt thiết trên một không
gian và trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm những mục đích nhất định,
theo một kế hoạch và dưới sự chỉ huy thống nhất, tập trung, thực hiện nhiệm vụ
mà chiến lược quân sự đặt ra.
Kế thừa những kinh nghiệm chiến dịch và nghệ thuật chiến
dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn
chỉnh đến hoàn chỉnh, từ quy mô nhỏ và vừa (liên trung đoàn, sư đoàn) lên quy
mô tương đối lớn (vài sư đoàn, quân đoàn hoặc tương đương) và cuối cùng là
nhiều quân đoàn; từ tác chiến trên bộ đến tác chiến đất đối không… Sự phát
triển của chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch trong thời kỳ này gắn liền với sự
lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; gắn liền
với việc đương đầu và đánh bại lực lượng quân sự trên bộ của đối phương- lực
lượng này từ chỗ ban đầu gồm 30-40 vạn lính quân đội Sài Gòn đến lúc tăng lên hơn 1 triệu lính Mỹ, quân đội Sài Gòn, đồng minh của Mỹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự phát triển
phong phú về các loại hình chiến dịch là đặc trưng nổi bật của quá trình phát
triển và hoàn chỉnh nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Sự phát triển đó được quy
định bởi các nhân tố chủ yếu như : đường lối chiến tranh nhân dân và chiến lược
tổng hợp của cuộc kháng chiến; sự chỉ đạo đúng đắn của cấp chiến lược
về mặt quân sự và sự phát triển phong phú, sáng tạo của chiến thuật; hậu phương
miền Bắc và hậu phương tại chỗ, bao gồm cả tuyến vận tải chiến lược 559 ngày
càng được củng cố vững chắc và không ngừng lớn mạnh…
Các loại hình chiến dịch thời kỳ này nếu xếp theo phương
thức tiến hành chiến tranh thì gồm chiến dịch của chiến tranh du kích (chiến
tranh nhân dân địa phương) và chiến dịch chính quy đánh tập trung; nếu xếp theo
lực lượng tiến hành thì gồm chiến của chủ lực, chiến dịch địa phương, chiến
dịch tổng hợp; theo hình thức tác chiến,
gồm chiến dịch tiến công, chiến dịch phản công, chiến dịch phòng ngự, chiến
dịch chống càn (mang tính chất tiến công), chiến dịch phòng không. Theo thống
kê chưa đầy đủ, trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội NDVN đã thực hiện
trên dưới 50 chiến dịch mà phổ biến nhất là loại hình chiến dịch tiến công.
Một cách tổng quát, có thể phân chia các bước phát triển
chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thành
các giai đoạn lịch sử sau đây:
-Từ 1964 đến 1965: là giai đoạn QĐNDVN bắt đầu vận dụng nghệ
thuật chiến dịch tiến công qua các chiến dịch khởi đầu như chiến dịch Bình Giã
(từ 2-12-1964 đến 7-3-1965), chiến dịch Đồng Xoài (từ 10-5 đến 2-7-1965), chiến
dịch Ba Gia (từ 29-5 đến 20-7-1965). Đây là các chiến dịch tiến công có quy mô
sử dụng lực lượng liên trung đoàn, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương,
được sự đảm bảo một phần về hậu cần của nhân dân địa phương trên địa bàn chiến
dịch, đánh vào đối tượng chủ lực quân đội Sài Gòn là chính, diễn ra ở khu vực rừng núi hoặc
giáp ranh trên một không gian khoảng 2 đến 3 huyện và trong thời gian từ 1 đến
2 tháng. Đặc điểm của các loại hình chiến dịch tiến công kỳ đầu này là mang
tính chất tổng hợp – kết hợp tiến công quân sự với sự nổi dậy của quần chúng
nhằm thực hiện mục tiêu tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ.
-Từ giữa năm 1965 đến năm 1968: là giai đoạn QĐNDVN trực tiếp
đánh quân viễn chinh Mỹ. Trong giai đoạn này, có các chiến dịch tiến công Plây
Me, Tây Nguyên (từ 19-10 đến 26-11-1965), chiến dịch tiến công Bầu Bàng – Dầu
Tiếng ở Đông Nam Bộ (từ 1-11 đến 27-11-1965), chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh
ở Quảng Ngãi (từ 20-2 đến 20-4-1966), chiến dịch tiến công Sa Thầy ở Tây Nguyên
(từ 18-10 đến 6-12-1966), chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn
Xi-ti, Đông Nam Bộ (từ 22-2 đến 15-4-1967), chiến dịch tiến công Đắc Tô ở bắc
Tây Nguyên (từ 3 đến 23-11-1967). Chiến dịch tiến công Đường số 9 – Khe Sanh ở
bắc Quảng Trị (Xuân Hè 1968) và các cuộc tiến công vào nội đô Sài Gòn và Huế
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có quy mô như những
chiến dịch tiến công mang tính chất chiến lược… Như thế, về loại hình, bên cạnh
các chiến dịch tiến công, đã xuất hiện các chiến dịch phản công; về quy mô, lực
lượng tham gia chủ yếu là cấp sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường cùng lực lượng vũ
trang địa phương; về cách đánh chiến dịch và sự chỉ đạo vận dụng chiến thuật
trong chiến dịch cũng như nghệ thuật vận dụng các mưu kế, lập thế trận chiến
dịch, nghệ thuật tổ chức, điều hành chiến dịch có sự phát triển cao hơn giai đoạn
trước.
- Từ 1970 đến năm 1971: là giai đoạn Mỹ,quân đội Sài Gòn mở rộng
chiến tranh xâm lược ra toàn Đông Dương. Đây là giai đoạn VNDCCH mở các hoạt động
và các chiến dịch phản công như: hoạt động phản công làm thất bại cuộc tiến
công sang Cam-pu-chia của Mỹ, quân đội Sài Gòn; ba chiến dịch phản công đánh bại ba cuộc
hành quân quy mô lớn của đối phương ở Đường số 9-Nam Lào, đông bắc Cam-pu-chia và
Đường số 6 (Công Pông Chàm-Công Pông Thom). Nghệ thuật chiến dịch phản công của QĐNDVN đã phát triển lên một trình độ mới, khá hoàn chỉnh: Lực lượng sử dụng lên
tới tương đương cấp quân đoàn, diễn ra ở vòng ngoài chiến trường chính miền Nam
Việt Nam, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, tạo thế và lực cho cuộc tiến
công chiến lược 1972.
- Năm 1972, lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, QĐNDVN tiến hành đồng thời 3 chiến dịch tiến công lớn với lực lượng
sử dụng ở mỗi chiến dịch tương đương cấp quân đoàn tăng cường, trên 3 hướng
chiến lược quan trọng thuộc chiến trường chính miền Nam và Trị Thiên, Bắc Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ; đột phá thẳng vào hệ thống phòng ngự kiên cố của đối phương. So
với các chiến dịch tiến công giai đoạn trước, đây là những chiến dịch có quy mô
lớn hơn, không gian rộng hơn, thời gian dài hơn. Bên cạnh các chiến dịch tiến
công của các binh đoàn chủ lực, ta còn liên tiếp mở 2 chiến dịch tiến công tổng
hợp ở Bắc Bình Định (Trung Bộ) và ở Khu 8 (Nam Bộ). Trên miền Bắc, Quân chủng
Phòng không – Không quân cùng lực lượng Phòng không địa phương tiến hành chiến
dịch phòng không quy mô lớn đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không bằng
máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phong. Bắc Lào, Việt Nam và Lào thực hiện thắng
lợi chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng. Như vậy, đây là giai
đoạn mà các loại hình chiến dịch của ta phát triển phong phú, nghệ thuật chiến
dịch phát triển toàn diện và khá hoàn chỉnh.
-Từ năm 1973 đến năm 1975, trên cơ sở tạo thế và lực của hai
năm 1973, 1974, QĐNDVN mở 3 chiến dịch lớn kế tiếp nhau là Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng,
Hồ Chí Minh với quy mô lực lượng lớn, trên một không gian rộng, trong một thời
gian ngắn. Với 3 chiến dịch này, loại hình chiến dịch tiến công đã có bước phát
triển mới, mang ý nghĩa chiến lược. Nó có các đặc điểm chủ yếu như: do cấp
chiến lược trực tiếp chỉ đạo, do từng tập đoàng chiến dịch binh chủng hợp thành
tương đối lớn thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ của bộ đội địa phương, dân
quân du kích trên địa bàn chiến dịch, nhằm mục đích tiêu diệt và làm tan rã lớn
từng địa bàn chiến dịch - chiến lược của
đối phương, giải phóng từng địa bàn chiến lược, tạo nên sự đột biến chiến dịch và đưa
đến sự phá vỡ thế chiến lược của đối phương; các hình thức chiến thuật phát triển
phong phú và ở trình độ cao, nhất là nghệ thuật tổ chức thực hành các trận then
chốt…
Nhìn chung, trong kháng chiến chống Mỹ, nghệ thuật chiến
dịch của chiến tranh nhân dân phát triển lên một trình độ mới. Sự phát triển này được biểu hiện trên những nội
dung thuộc về nghệ thuật chiến dịch như chọn hướng, mục tiêu, đối tượng tác
chiến chiến dịch; tổ chức, sử dụng lực lượng; lập thế trận; chọn cách đánh;
chuẩn bị và thực hành chiến dịch; chỉ đạo chiến thuật trong chiến dịch; tổ chức
chỉ huy, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; phát huy nhân tố chính trị-tinh thần trong
chiến dịch… Tựu trung, nghệ thuật chiến dịch quân sự Việt Nam thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ đã giải quyết thành công các nội dung trên đây, trong đó đặc
biệt đáng chú ý các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghệ thuật lập thế
trận chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam, phá thế trận chiến dịch của
địch có bước phát triển mới. Sự phát triển đó gắn liền với thế trận chiến tranh
nhân dân phát triển đến trình độ cao, trên khắp cả 3 vùng chiến lược. Thế trận
đó lồng xen với vùng địch kiểm soát, áp sát và bao vây các vùng ven đô thị, các
căn cứ quân sự, hậu cần và các tuyến giao thông huyết mạch trên khắp chiến
trường miền Nam. Thế trận đó cho phép quân và dân Việt Nam thực hành chiến lược tiến
công bằng hai lực lượng quân sự, chính trị, buộc đối phương luôn phải dàn mỏng lực
lượng và bị động chống đỡ ở khắp mọi nơi, vào mọi lúc… Dựa trên thế trận chiến
tranh nhân dân phát triển, ở các chiến dịch, QĐNDVN đã bố trí, triển khai các lực
lượng và thiết bị chiến trường một cách thích hợp; đã xây dựng được thế trận
chiến dịch vững chắc, hiểm hóc và cơ động. Nhìn chung, nghệ thuật tạo thế trận
chiến dịch của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ rất linh hoạt, biến hoá theo sự
thay đồi về so sánh về thế và lực giữa hai bên và theo yêu cầu nhiệm vụ chiến
lược…
Thứ hai, việc xác định hướng (khu vực) và mục
tiêu chiến dịch đúng đắn, sát hợp là một trong những thành công nổi bật của
nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Vấn đề này
trước hết tuỳ thuộc vào sự so sánh tương quan lực lượng giữa đôi bên về
chiến dịch, vào yêu cầu nhiệm vụ chiến lược, vào điều kiện đảm bảo vật chất –
kỹ thuật và điều kiện địa hình. Ví như những năm khi Mỹ đưa quân Mỹ vào niềm Nam
trực tiếp tham chiến, lúc đầu Việt Nam chọn vùng rừng núi và vùng giáp ranh làm hướng
chủ yếu để mở các chiến dịch. Đến đầu năm 1968, đồng thời với địa bàn trên,
chọn đô thị, nhất là các đô thị lớn làm hướng tiến công chủ yếu. Tiếp đó, năm
1972, chọn tuyến phòng ngự chiến lược cơ bản của đối phương để mở 3 chiến dịch
tiến công lớn. Trong các chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá chương trình
“bình định”, QĐNDVN đã chọn đúng hướng để mở mảng, mở vùng là khi vực đồng bằng
đông dân cư, nơi có tầm quan trọng chiến lược đối với cả hai phía…
Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, việc chọn Tây
Nguyên làm địa bàn mở đòn tiến công chiến lược đầu tiên và việc chọn Buôn Mê
Thuột là mục tiêu đột phá là một mẫu mực mang tính kinh điển và nghệ thuật chọn
hướng, chọn mục tiêu chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thứ ba,tổ chức lực lượng và tổ chức chỉ huy
chiến dịch có bước phát triển mới. Ví như, trong giai đoạn từ năm1964 đến khi
kết thúc chiến tranh cục bộ (1968), về quy mô lực lượng chiến dịch, QĐNDVN sử dụng
từ liên trung đoàn lên tới sư đoàn, sư đoàn tăng cường rồi liên sư đoàn: về chỉ
huy chiến dịch, thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương và cơ quan chiến dịch tiền
phương. Năm 1972, khi quy mô lực lượng sử dụng trong các chiến dịch trên các
hướng chiến lược lên tới quân đoàn, quân đoàn tăng cường thì về các mặt tổ chức
chỉ huy, trên các hướng chiến dịch tiến công tổng hợp, trong điều kiện sử dụng
bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân du kích xã
ấp phối hợp chiến đấu với quần chúng trên địa bàn mở chiến dịch thì về mặt tổ chức huy, QĐNDVN tổ chức cơ quan
chỉ đạo chỉ huy thống nhất gồm các chủ trì cấp uỷ địa phương và các chỉ huy quân sự… Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 là đỉnh
cao về nghệ thuật tổ chức lực lượng, tổ chức chỉ huy. Về tổ chức lực lượng
chiến dịch, QĐNDVN sử dụng từng tập đoàn chiến dịch bình chủng hợp thành (bao gồm
từ 1 đến 2 quân đoàn và tương đương đến 5 quân đoàn và tương đương). Về tổ chức
chỉ huy, trong chiến dịch Tây Nguyên, bên cạnh Bộ Tư lệnh chiến dịch còn có đại
diện Bộ Tổng tư lệnh thay mặt Bộ Tổng tư lệnh quyết định trực tiếp các tình
huống chiến dịch quan trọng; trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, trên thực tế, Bộ
Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy các cánh quân tiến công Đà Nẵng; đến chiến dịch
Hồ Chí Minh, Tư lệnh chiến dịch là Uỷ viên dự khuyết của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng quân đội; Chính uỷ chiến dịch là Uỷ viên
Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục kiêm Chính uỷ Miền … Một bộ tư lệnh như vậy
có đủ khả năng và quyền hạn để chỉ huy tập trung, thống nhất toàn bộ các lực
lượng tham gia chiến dịch lịch sử mang tên CHồ Chí Minh, kết thúc thắng
lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thứ tư, xác định cách đánh chiến dịch đúng
đắn, sáng tạo là một nội dung nổi bật của nghệ thuật chiến dịch trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Cách đánh là lĩnh vực biểu hiện tập trung nhất tính
sáng tạo của nghệ thuật chiến dịch, là căn cứ quan trọng để tiến hành tổ
chức chuẩn bị và thực hành chiến dịch.
Nó tuỳ thuộc vào các yếu tố như mục đích, nhiệm vụ chiến dịch, tình hình địch –
ta, địa hình, thời tiết... trên địa bàn chiến dịch. Trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, cách đánh chiến dịch gắn liền với quán trình phát triển của cuộc
kháng chiến nói chung, của thế trận chiến lược và lực lượng vũ trang nhân dân
nói riêng. Nói cách khác, cách đánh chiến dịch trong kháng chiến chống
Mỹ là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ mới cách đánh chiến dịch thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là cách đánh chiến dịch của
chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển trên cả 3 vùng chiến lược (rừng núi,
nông thôn, đồng bằng, đô thị), là sự vận dụng tổng hợp cách đánh giá của lực
lượng vũ trang ba thứ quân có kết hợp với những mức độ khác nhau với lực lượng
chính trị, là sự kết hợp nhiều phương thức và quy mô tác chiến, trong đó,
phương thức tác chiến hợp đồng binh chủng ngày càng giữ vị trí quan trọng và về
cuối cuộc chiến, giữ vai trò chủ yếu.
Các chiến dịch của QĐNDVN mở ra trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ nhằm một số mục đích quan trọng, nhất là tiêu chuẩn diệt sinh lực địch vì đó
là tiền đề để đạt các mục đích khác. Thực tiễn lịch sử kháng chiến chống Mỹ cho
thấy, để đạt mục đích chủ yếu trên đây, về cách đánh chiến dịch, về việc tạo
tình hướng và thời cơ để thực hành các trận then chốt và trận then chốt quyết
định, phải vận dụng mưu kế trong chỉ huy để đảm bảo tính chủ động, bất ngờ,
linh hoạt, chắc thắng…
Trên cơ sở quán triệt những đặc điểm, yêu cầu trên đây,
cách đánh chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được vận dụng và phát
triển phù hợp với các loại hình chiến dịch khác nhau như chiến dịch tiến công,
chiến dịch phản công, chiến dịch phòng ngự.
Đối với chiến dịch tiến công – một loại hình
chiến dịch chủ yếu, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số các chiến dịch được mở thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, cách đánh được thể hiện tập trung ở hai phương thức
tác chiến cơ bản: tiến công địch ở ngoài công sự bằng cách đánh vận động là chủ
yếu là tiến công khu vực phòng ngự của địch bằng đánh trận địa. Thuộc loại hình
này còn có chiến dịch tiến công tổng hợp. Cách đánh của loại chiến dịch tiến
công tổng hợp. Cách đánh của loại chiến dịch này là tiến hành đồng thời và phối
hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy cảu quần chúng trên địa bàn mở
chiến dịch để tiêu diệt sinh lực địch, giành đất, giành dân, giành quyền làm
chủ.
Đối với loại hình chiến dịch phản công, cách đánh chủ yếu là
kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến ngăn chặn và các lực lượng vũ trang tại chỗ với
tác chiến của các đơn vị chủ lực cơ động nhằm tiêu diệt những bộ phận lực
lượng chủ yếu của địch, bẻ gãy từng mũi, từng cánh, từng đợt phản công của
địch.
Phòng ngự là
loại hình chiến dịch ít được tổ chức. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đã cho
thấy, cách đánh chiến dịch phòng ngự là kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự và tiến
công, kiên quyết giữ vững trận địa với tích cực phản kích và tiến công ra ngoài
trần địa, chớp thời cơ, mở các trận phản đột kích then chốt tiêu diệt lực lượng
tiến công nòng cốt của địch.
Nhìn chung lại, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
nghệ thuật chiến dịch Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới. Đó là nghệ thuật
chọn hướng, chọn mục tiêu, chọn đối tượng tác chiến; nghệ thuật tạo thế mình,
phát thế đối; nghệ thuật phân tán, chia cắt, cô lập đối phương và tập trung lực
lượng ưu thế để đánh đòn quyết định vào nơi và vào lúc quyết định. Đó còn là
nghệ thuật lựa chọn và vận dụng cách đánh đảm bảo đánh trúng, đánh hiểm, đánh
tiêu diệt, tạo sự đột biến về chiến dịch và chiến lược, góp phần dẫn đến các
bước ngoặt trong cục diện chiến tranh.
3. Chiến thuật
Chiến thuật là bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự,
gồm lý luận và thực tiễn chuẩn bị và thực hành các trận chiến đấu, chịu
sự chỉ đạo của chiến lược và nghệ thuật chiến dịch. Trận chiến đấu là hành động
cơ bản của đấu tranh vũ trang, là biểu hiện cụ thể của chiến dịch và chiến
lược. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên nền chung của thế trận chiến
tranh nhân dân phát triển cao ở cả hai miền Nam, Bắc, các trận chiến đấu không
phải chỉ là đấu tranh vũ trang có tổ chức của các đơn vị chủ lực, các binh đoàn
chủ lực mà còn là của các đơn vị bộ đội địa phương. Dân quân du kích, tự vệ,
nhân dân có tổ chức hoặc tự động đánh giặc…
Kế thừa thành quả và kinh nghiệm của chiến thuật trong
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chiến thuật trong kháng chiến chống
Mỹ phát triển lên một tầm cao mới với hình thức và nội dung rất phong phú, sáng
tạo. Đó là chiến thuật của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc đối đầu và
đánh bại đội quân xâm lược Mỹ và quân
đội Sài Gòn, bao gồm chiến thuật của các quân chủng, binh chủng, bộ đội và binh
chủng hợp thành: của từng cấp (đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn): của
lực lượng dân quân, du kích các địa phương, các chiến trường.
Sự hình thành và quá trình phát triển của chiến thuật
chiến tranh nhân dân Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước liên
quan tới các yếu tố tác động chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đó là truyền thống độc đáo về nghệ
thuật quân sự của quân dân Việt Nam trong trường kỳ lịch sử, mà biểu hiện tập
trung nhất là ở việc toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân là
nồng cốt.
Thứ hai, đó là đối tượng chiến thuật gồm quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân một số nước đồng minh của Mỹ. Mỗi đối tượng
có đặc điểm riêng nhưng cũng có điểm chung như vũ khí, trang bị, quân số, hoả
lực, sức cơ động, đảm bảo hậu cần vượt trội so với ta song lý tưởng và tinh
thần chiến lại non kém.
Thứ ba, đó còn là một số nhân tố liên quan
tới tình hình cụ thể như lòng dân ở hậu phương và nơi tiền tuyến cũng như trong
vùng địch kiểm soát luôn hướng về cách mạng, một lòng đi theo Đảng, bằng nhiều
hình thức giúp đỡ, chở che, đùm bọc bộ đội và tham gia phục vụ chiến đấu và
chến đấu; lực lượng vũ trang được tổ chức, xây dựng và tăng cường theo một
đường lối đúng đắn, có ý chí, quyết tâm, kinh nghiệm và sức sáng tạo trong
chiến đấu.
Thứ tư, địa hình, thời tiết, khí hậu khá phức
tạp, hình thành nhiều vùng khác nhau, tác động tới chiến thuật của các bên tham
chiến. Có điều, dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển,
lực lượng vũ trang ta đã khéo lợi dụng và khai thác tốt điều kiện địa hình,
thời tiết khí hậu để phục vụ cho ý đồ chiến thuật của mình.
Căn cứ vào những yếu tố tác động có liên quan (tình hình
địch, ta, đối tượng tác chiến…) và sự vận dụng, phát triển cảu các loại hình
chiến thuật, có thể phân chia quá trình phát triển của chiến thuật kỳ này thành
3 giai đoạn sau đây:
Giai đoạn đầu, từ phong trào Đồng
khởi đến đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặt biệt” (1961 – 1965). Trong giai
đoạn này, bộ đội ta trên chiến trường miền Nam chủ yếu vận dụng các hình thức
chiến thuật đã được tổng kết trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đó là chiến thuật vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không, tập kích.
Giai đoạn thứ hai, giai đoạn đánh thắng
chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968). Trước đối tượng có quân số đông,
vũ khí trang bị dồi dào, hiện đại, có hoả lực và sức cơ động cao, lại chiếm ưu
thế áp đảo trên biển, trên sông, trên không nên trong giai đoạn này, để đương
đầu và đánh bịa địch, ta chủ trương đẩy mạnh đánh đêm và đánh gần, “bám thắt
lưng Mỹ mà đánh”. Vì vậy, ở miền Nam, hình thức chiến thuật mà lực lượng vũ
trang ta vận dụng và phát triển rộng rãi là tập kích (chiếm 54,14% trong
tổng số trận đánh), vận động tiến công (thường là vận động tiến công
kết hợp chốt), phục kích.
Giai đoạn thứ ba, gia đoạn đánh thắng
chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969 – 1975). Trong giai đoạn này, lực
lượng vũ trang trên chiến trường vận dụng
và phát triển các loại hình chiến thuật như tập kích, vận động tiến
công địch đang cơ động, tạm dựng hoặc mới chuyển vào phòng ngự nhưng chưa
có công sự vững chắc; tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc,
phòng ngự.
Trải qua 15 năm chiến đấu (1961 – 1975), chiến thuật của
lực lượng vũ trang Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ có sự phát triển liên
tục, mạnh mẽ, với những hình thức và thủ đoạn chiến thuật chủ yếu như:
Chiến thuật của chiến tranh du kích là hình thức chiến
thuật cơ bản trong hoạt động đấu tranh vũ trang của đông đảo quần chúng cách
mạng, bao gồm cả lực lượng vũ trang ở các thôn, ấp, bản, xã, xí nghiệp, thị
trấn, thành phố và những đơn vị vũ trang tập trung như của các địa phương và
một số đơn vị chủ lực hoạt động phân tán. Cách đánh của các lực lượng này là sử
dụng lực lượng nhỏ, cơ động, linh hoạt, bằng mọi loại vũ khí sẵn có, tổ chức
đánh tỉa, phục kích, tập kích nhỏ lẻ, phá huỷ phương tiện và trang bị, vũ khí,
cơ sở hậu cần của địch, hệ thống đường giao thông, sở chỉ huy, bồn đốt…
Chiến thuật tác chiến chính quy (của đánh tập trung) là
hình thức sắp xếp, tổ chức các trận chiến đấu do lực lượng vũ trang tập trung
đóng vai trò chủ yếu (trong tác chiến hiệp đồng). Các trận chiến đấu này gồm
các hình thức; chiến đấu tiến công, phản công, phòng ngự; trong đó, phản công
và tiến công là hình thức tác chiến chủ yếu, cơ bản nhằm tiêu diệt địch, giải
phóng dân, giành đất, hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch hoặc chiến lược…
Chiến thuật trong kháng chiến chống Mỹ gồm có các đặc
trưng chủ yếu:
- Chiến thuật của phát huy ưu thế chính trị-tinh thần của
lực lượng vũ trang cách mạng, xem đó là một trong những nhân tố cơ bản để khắc
phục mọi thiếu thốn, khó khăn về vũ khí, phương tiện chiến tranh, đảm bảo hậu
cần; để xây dựng và củng cố ý chí, quyết tâm chiến đấu, là điều kiện thiết yếu
để vận dụng sáng tạo và phát triển các hình thức chiến thuật trong các tình
huống mới của cuộc chiến. Chính vì thế, công tác Đảng, công tác chính trị
trước, trong và sau mỗi trận đánh được lãnh đạo, chỉ huy đặc biệt chú ý nhằm
xây dựng ý chí và quyết tâm chiến đấu cao, phát huy mạnh mẽ bản lĩnh chiến đấu,
tính năng động, sức sáng tạo, sự linh hoạt của từng người, từng bộ phận để tạo
nên sức mạnh to lớn.
- Chiến thuật của quân đội nhân dân Việt Nam là chiến
thuật tiến công kiên quyết, phòng thủ kiên cường, buộc địch phải đánh theo cách
của ta, vào nơi và lúc do ta lựa chọn. Các trận chiến đấu thời kỳ này
thường được thực hiện vào ban đêm là lúc địch khó quan sát, ta dễ che dấu lực
lượng, có điều kiện áp sát mục tiêu để tạo thế bất ngờ. Ngoài ra, khi quân Mỹ
vào tham chiến, cách đánh của ta là đánh gần, đánh quần lộn, “bám thắt lưng Mỹ
mà đánh”, không cho địch phân tuyến và chính cách đánh này của ta đã hạn chế ưu
thế về vũ khí, hoả lực, phương tiện chiến tranh dồi dào, hiện đại vốn là ưu thế
của địch. Lối đánh tiến công kiên quyết và chủ động, phòng thủ kiên cường của
bộ đội Việt Nam đã làm cho chiến thuật của đối phương bị “tréo giò”, bị động, chắp vá, kém
hiệu quả bởi quân Mỹ, quân đồng minh và quân Sài Gòn được huấn luyện để tiến
hành “chiến tranh quy ước” – kiểu chiến tranh phân
vùng, phân tuyến rõ rệt; lực lượng của hai bên dàn thành trận tuyến…
- Chiến thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy
mạnh mẽ tính mưu trí, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, chú trọng công tác nắm
địch, khéo tạo và vận dụng thời cơ, đánh bất ngờ, kiên quyết, táo bạo và dũng
mãnh, nhằm vào chỗ sơ hở, hiểm yếu của địch. Tất thảy điều đó đảm bảo để trong
mỗi trận đấu, chúng ta đánh địch trên thế mạnh, thế bất ngờ, lấy chất lượng cao
thắng số lượng đông, lấy lý chí, trí tuệ con người để thắng vũ khí và phương
tiện chiến tranh của địch.
- Chiến thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam là chiến
thuật hiệp đồng 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ),
hiệp đồng các binh chủng, quân chủng; là chiến thuật kết hợp tính linh hoạt,
táo bạo, bí mật, bất ngờ của cách đánh du kích với tính tổ chức, kỷ luật “bài
bản” và kiên quyết của cách đánh tập trung, chính quy. Trong những năm kháng
chiến chống Mỹ, cùng với nhịp độ phát triển của cuộc chiến tranh và gắn với các
bước trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng, sự kết hợp, hiệp
đồng trên đây diễn ra ngày càng nhịp nhàng, ngày càng hiệu quả trên cơ sở mỗi
chiến sĩ, mỗi bộ phận, mỗi đơn vị phát huy tính độc lập và chủ động của bản
thân để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được phân công.
Tóm lại, thời kỳ này, chiến thuật của chiến tranh cách
mạng miền Nam có bước phát triển mạnh mẽ, sinh động. Đó là sự kết hợp nhiều
phương pháp và hình thức đánh địch, sử dụng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí,
trang bị hiện có, tận dụng mọi điều kiện thời tiết và địa hình, đánh địch trong
mọi tình huống, ở mọi nơi, và mọi lúc… Lối đánh đó dựa vào tính năng động chủ
quan, trí thông minh, sự sáng tạo và lòng dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ lực
lượng vũ trang; dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân phát triển ở cả 3 vùng
chiến lược và dựa vào sự che chở, đùm bọc, giúp đỡ, tham gia hiệu quả của nhân
dân các địa phương.
Trên những nét phát triển mới, nghệ thuật quân sự Việt Nam
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có một số đặc điểm chủ yếu sau đây:
Đó là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc lấy lực
lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân làm nòng cốt, trong cuộc chiến tranh nhân
dân phát triển cao ở cả 3 vùng chiến lược, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao;
Đó là nghệ thuật quân sự lấy nhỏ thắng lớn, lấy chất
lượng cao thắng số lượng đông, lấy trang bị, vũ khí ít hơn và kém hiện đại hơn
đánh thắng quân địch có trang bị kỹ thuật dồi dào và hiện đại;
Đó là nghệ thuật kết hợp lực lượng, thế, thời, hình thành
thế mạnh, đánh địch bất ngờ;
Đó là nghệ thuật phát huy ưu thế về chính trị-tinh thần,
kết hợp quyết tâm, ý chí, bản lĩnh và trí tuệ để tạo nên sức mạnh tổng hợp to
lớn;
Đó là nghệ thuật tác chiến cả chiến lược, chiến dịch,
chiến đấu; đánh theo cách đánh do ta lựa chọn, buộc địch phải đánh theo cách
đánh của ta.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, có thể thấy, quân và dân Việt Nam đã giải quyết thành công những vấn đề
rất cơ bản thuộc về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân phát triển đến
trình độ cao trong cuộc đụng đầu lịch sử với đội quân nhà nghề Mỹ và đồng minh
của Mỹ, cả ở trên bộ, trên không, trên sông, trên biển. Trong cuộc đụng đầu
này, dựa vào lòng yêu nước của nhân dân vững tin ở sức mạnh và sự sáng tạo của
nhân dân, đã xây dựng và phát triển được thế trận chiến tranh nhân
dân, ngày càng hoàn chỉnh và vững chắc trên cả ba vùng chiến lược là rừng núi,
nông thôn đồng bằng và đô thị. Đó là thế trận xen cài giữa vùng ta và vùng địch
kiểm soát, bao gồm những cơ sở cách mạng, căn cú, khu du kích, vùng giải phóng,
vùng căn cứ được xây dựng thành hậu phương tại chỗ của cách mạng miền Nam,
thành địa bàn triển khai các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị một cách
hợp lý trên khắp các vùng chiến lược. Đặc biệt, tuyến vận tải chiến lược Trường
Sơn được xây dựng và không ngừng mở rộng, vươn sâu, vươn xa về phía nam và tới
các chiến trường, chẳng những nối liền hậu phương lớn miền Bắc với hậu phương
tại chỗ của cách mạng miền Nam, mà còn nối vùng Nam Lào, Đông Bắc Campuchia,
nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ thành thế trận liên hoàn; thành căn cứ đứng chân
của các binh đoàn chủ lực. Thế trận đó buộc Mỹ – nguỵ phải sử dụng một bộ phận
binh lực quan trọng để đối phó. Trên thực tế, những năm chống đế quốc Mỹ, chỉ
riêng việc ba khối chủ lực mạnh của ta đứng chân ở Tây Trị Thiên, Trường Sơn –
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng đã tạo nên thế uy hiếp thường xuyên đối với toàn
bộ chiến trường miền Nam. Rõ ràng, thế trận chiến tranh nhân dân ở miền Nam là
thế trận liên hoàn và rất hiểm hóc. Thế trận đó cho phép quân và dân thực
hành chiến lược tiến công địch rộng khắp, liên tục, ngày càng mạnh mẽ cả về
quân sự và chính trị, bằng nhiều hình thức, với những vũ khí có trong tay. Bị
bao vây, chia cắt, bị tiến công liên tục mọi nơi mọi lúc, Mỹ, quân đội Sài Gòn buộc phải
dàn mỏng lực lượng để đối phó, khiến cho ưu thế về quân số, hoả lực, sức cơ
động của chúng bị hạn chế trước sự vây hãm của thế trận đan cài, xen kẽ. Suốt
cuộc chiến tranh, Mỹ, quân đội Sài Gòn luôn bị lâm vào tình thế giằng co, mâu thuẫn giữa
chiếm đóng và cơ động, giữa phân tán và tập trung, giữa phòng giữ và tiến công,
giữa “tìm diệt” và “bình định”.
Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, đã phát
triển và kết hợp lực lượng quân sự và chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân ba
thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phát triển và kết hợp chặt chẽ
giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy. Chiến tranh du kích trong
kháng chiến chống Mỹ phát triển đến trình độ cao, trở thành chiến tranh nhân
dân địa phương, có tác dụng tiêu hao, tiêu diệt rộng rãi một bộ phận quan trọng
sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; ghìm chặt địch trên các địa bàn
chiến lược, buộc chúng phải phân tán binh lực chống đỡ, bộc lộ sơ hở, tạo điều
kiện cho các binh đoàn chủ lực đẩy mạnh hoạt động. Nghệ thuật quân sự Việt Nam
coi trọng phương thức tác chiến của các binh đoàn chủ lực, binh chủng hợp
thành, coi trọng những trận đánh lớn, những chiến dịch gây thôi động mạnh, làm
rung chuyển thế trận chiến lược của địch, tạo ra những bước ngoặt quyết định
trong cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Từ những chiến
dịch khởi đầu ở Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài trong Xuân Hè 1965 góp phần đánh
bại chiến lược chiến tranh đặc biệt, chủ lực ta tiến lên mở các chiến dịch lớn như
Plây Me, Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào, Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên… Đặc biệt, giai
đoạn kết thúc chiến tranh, bằng ba đòn tiến công chiến lược của lực lượng binh
chủng hợp thành, Việt Nam đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Để đánh bại lực lượng quân sự của đối phương, quan đó bẻ gãy ý
chí xâm lược của chúng, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã giải quyết thành công
vấn đề chọn hướng tiến công trên tất cả các lĩnh vực chiến lược, chiến dịch và
chiến thuật. Đồng khởi mùa xuân 1960, quân dân miền Nam tiến công và nổi dậy đập tan
chính quyền cơ sở địch ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, đưa cách mạng miền Nam
từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công trên khắp ba vùng chiến
lược. Mùa xuân 1968, Quân giải phóng “lừa địch” ở Đường 9 – Khe Sanh và bất ngờ chuyển
hướng tiến công chiến lược vào một loạt đô thị trên toàn miền Nam, đập tan tham
vọng giành thắng lợi về quân sự của Mỹ. Mùa xuân 1972, sử dụng các
binh đoàn chủ lực đánh mạnh và đập vỡ tuyến phòng ngự vòng ngoài vững chắc của
địch ở Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Mùa xuân 1975, căng đối phương ra
và ghìm chặt ở hai đầu chiến tuyến là Trị Thiên và Đông Nam Bộ; đồng thời
tập trung binh lực tiến công mãnh liệt địch ở quãng giữa là Tây Nguyên, tiêu
diệt Quân đoàn 2 và Quân khu 2 của quân đội Sài Gòn, cắt đôi thế trận chiến
lược, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Cùng lúc
đó, kịp thời sử dụng lực lượng giải phóng các đảo và quần đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, thu hồi phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Nghệ thuật tiến công trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
không chỉ là nghệ thuật chọn hướng mà còn là nghệ thuật chọn mục tiêu, chọn
hình thức và phương thức tiến công. Trên nền của cuộc chiến tranh nhân dân phát
triển sâu rộng, quân và dân ở khắp các chiến trường, địa phương đã sáng tạo
những cách đánh đầy hiệu quả, nhằm vào những khu vực mục tiêu “yết hầu”, “huyết
mạch”, “tim óc”, như hệ thống căn cứ quân sự – hậu cần – kỹ thuật, hệ thống
giao thông, các cơ quan đầu não chỉ đạo của địch ở sâu trong các đô thị trên
toàn miền … Cách đánh đó dựa trên tính năng động chủ quan, trí thông minh, lòng
quả cảm và tài sáng tạo của quân và dân Việt Nam – những con người yêu nước thiết
tha, chẳng những dám đánh mà còn biết đanh, biết thắng một cách có lợi nhất,
phù hợp với truyền thống quân sự Việt Nam.
Trên vùng trời, vùng biển miền Bắc, những năm chống chiến tranh phá hoại, quân và dân đã xây dựng, phát triển mạnh mẽ thế trận chiến tranh nhân dân, hình thành lưới lửa phòng không tầm thấp, tầm trung và tầm cao. Dựa trên thế trận đó, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng phương thức tác chiến tại chỗ, rộng khắp của lực lượng phòng không, phòng thủ biển ba thứ quân với phương thức tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của lực lượng phòng không chủ lực, đánh bạo các bước leo thang chiến tranh của không quân, hải quân Mỹ.
Trên vùng trời, vùng biển miền Bắc, những năm chống chiến tranh phá hoại, quân và dân đã xây dựng, phát triển mạnh mẽ thế trận chiến tranh nhân dân, hình thành lưới lửa phòng không tầm thấp, tầm trung và tầm cao. Dựa trên thế trận đó, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng phương thức tác chiến tại chỗ, rộng khắp của lực lượng phòng không, phòng thủ biển ba thứ quân với phương thức tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của lực lượng phòng không chủ lực, đánh bạo các bước leo thang chiến tranh của không quân, hải quân Mỹ.
Hình thành và phát triển trong cuộc chiến tranh cách
mạng, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước được nâng lên một tầm cao mới, trở thành nghệ thuật quân sự hiện đại
Việt Nam – xét cả về bản chất, quy mô, cường độ cuộc chiến; cả về vũ khí và
phương tiện chiến tranh cũng như việc giải quyết vấn đề chiến lược quân sự,
nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật và kỹ thuật. Đó là nền nghệ thuật quân sự
toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, nền nghệ
thuật kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh
ngoại giao, kết hợp giữa đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, kết hợp các nhân tố
lực – thế – thời, đánh địch một cách bất ngờ, tạo nên sức mạnh đánh thắng lực
lượng quân sự địch và các chiến lược chiến tranh, qua đó, góp phần
quan trọng đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, hoàn thành mục tiêu giải miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Đó là một biểu hiện rực rỡ của bản
lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại mới.
[1] Trung tâm từ điển bách khoa quân sự
BQP: Từ điển BKQSVN, NXB QĐND, HN.
1976, tr 174
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!