Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (Qua thực tiễn 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1945 đến năm 1975)

PGS,TS. Hồ Khang
Nghệ thuật quân sự, hiểu một cách chung nhất, là nghệ thuật chỉ đạo các hoạt động đấu tranh vũ trang trong chiến tranh. Đây là một bộ phận vô cùng quan trọng của phương thức tiến hành chiến tranh và của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Nghệ thuật quân sự hiện đại của Đảng là một thành công rực rỡ về sự vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của đất Việt Nam - một nước nhỏ bé, kinh tế lạc hậu, kém phát triển, luôn luôn phải đối đầu với những kẻ xâm lược có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn mạnh và lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần.
Qua hai cuộc kháng chiến bảo vệ và giải phóng Tổ quốc vĩ đại (kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ), nghệ thuật quân sự của Đảng CSVN đã hình thành và phát triển từng bước, nội dung ngày càng hoàn chỉnh hơn.

Nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam gồm những nội dung chính sau:
Nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam là nghệ thuật tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của chiến tranh cách mạng Việt Nam là một nước nhỏ chống trả lại với những nước lớn, “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, Đảng CSVN đề ra đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Với đường lối đó, nghệ thuật quân sự của Việt Nam trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc, đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí và mọi cách đánh. Đó cũng là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc.
Để đánh thắng những đội quân xâm lược lớn của chủ nghĩa đế quốc, Đảng CSVN không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang, mà dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh toàn dân. Trong các cuộc chiến tranh nhân dân của dân tộc từ khi Đảng CSVN ra đời, toàn dân đứng lên, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp chiến đấu chống lại sự thống trị, sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, giữ vững độc lập, tự do cho Tổ quốc. Huy động toàn bộ sức mạnh tinh thần, vật chất, trí tuệ của toàn dân tộc, tổ chức kháng chiến toàn dân, Đảng CSVN đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng những kẻ thù to lớn và mạnh hơn gấp nhiều lần. Khối đoàn kết toàn dân đánh giặc đã bao vây, chia cắt lực lượng mạnh của đối phương ra mà đánh, làm cho đối phương suy yếu, rồi đi đến thất bại hoàn toàn. Chiến tranh toàn dân của Việt Nam có lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với nhau, với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp, có đầy đủ khả năng làm đối phương bị tiêu hao lớn, làm thất bại mọi cuộc tiến công của chúng. Đối phương dù có tăng cường lực lượng và trang bị vũ khí trên chiến trường đến đâu, cũng không thể nào đối phó với lực lượng toàn dân đánh giặc, không thể có thế chủ động trên chiến trường. Đi đôi với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương, đấu tranh vũ trang còn có nhiệm vụ bảo vệ dân, giữ dân, giành dân, làm chỗ dựa cho quần chúng cách mạng. Do vậy, trong khi đẩy mạnh tấn công định bằng đấu tranh vũ trang, không quên tấn công đối phương mạnh mẽ bằng đấu tranh chính trị. Dựa vào sức mạnh của chính nghĩa và lực lượng đoàn kết, có tổ chức của đông đảo quần chúng, các cuộc đấu tranh chính trị nhằm đạt được những mục đích nhất định trên mọi phương diện. Đấu tranh chính trị là con đường tất yếu đưa quần chúng nhân dân từng bước tiến lên trên mặt trận cách mạng, từ hình thức thấp đến hình thức cao. Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến toàn dân, lực lượng chính trị của quần chúng không chỉ là lực lượng tham gia xây dựng hậu phương, chi viện cho tuyền tuyến, mà còn là lực lượng trực tiếp tiến công đối phương bằng nhiều hình thức phong phú như đấu tranh chính trị trực diện với đối phương, nổi dậy giành chính quyền với mức độ làm chủ khác nhau, tham gia chiến tranh du kích, vận động binh lính đối phương… cùng với lực lượng vũ trang của nhân dân thực hiện sự kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy với tác chiến bằng những hình thức đấu tranh phong phú và vô cùng đa dạng. Đó chính là nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, tiến công đối phương bằng cả lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng, tiến công đối phương cả trước mặt và sau lưng, bằng cách đánh chính quy và đánh du kích, đánh đối phương trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, đồng bằng, đô thị; đồng thời, kết hợp nhiều cách đánh khác nhau: Đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; tiêu hao, tiêu diệt đối phương gắn liền với việc làm tan rã hàng ngũ đối phương, đập tan ý chí xâm lược của đối phương; qua đó, hoạt động quân sự không còn là việc riêng của quân đội, mà được nhân dân cả nước thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Đấu tranh vũ trang cũng không còn là lĩnh vực dành riêng cho quân đội, mà được toàn dân tự giác cùng chiến đấu, hỗ trợ đắc lực cho quân đội chiến đấu và chiến thắng.
Quán triệt yêu cầu chỉ đạo nói trên, nghệ thuật quân sự Việt Nam trước hết phải xác định đúng đắn nhiệm vụ của lực lượng vũ trang và của đấu tranh vũ trang trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Đi đôi với việc tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương, các lực lượng vũ trang phải luôn luôn chú ý tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển cơ sở chính trị, đẩy mạnh đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh công tác binh vận, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền và làm chủ. Mặt khác, phải ra sức tận dụng thắng lợi của đấu tranh chính trị, của công tác binh vận… để tiến công quân sự, tiêu diệt đối phương. Hồ Chí Minh khẳng định: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”[1]. Trong chiến tranh cách mạng, muốn phát huy đến mức cao độ nhất sức mạnh của toàn dân, của cả nước đánh bại chiến tranh tổng lực của đối phương, nhất định phải đánh đối phương trên mọi mặt trận: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - tư tưởng và ngoại giao. Mỗi mặt trận đều có vị trí quan trọng của nó. Có nghĩa là phải tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện, tiến công toàn diện vào nền tảng thống trị của bọn đế quốc và tay sai bằng bạo lực cách mạng của quần chúng. Trong chiến tranh cách mạng Việt Nam,chiến tranh toàn dân luôn luôn đi đôi với toàn diện.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc và đánh giặc toàn diện. Đó là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, đồng thời chỉ đạo hoạt động quân sự của nhân dân cầm vũ khí đánh giặc. Cho nên nghệ thuật quân sự Việt Nam không những chỉ đạo hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, mà còn phải chỉ đạo hoạt động quân sự của đông đảo quần chúng nhân dân tham gia đánh giặc với mọi thứ vũ khí có trong tay trong cuộc chiến tranh toàn diện.
Nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam là nghệ thuật vận dụng chiến lược đánh lâu dài, trên cơ sở ra sức sáng tạo thời cơ, tranh thủ thời gian, giành thắng lợi ngày càng to lớn
Trong điều kiện đối phương mạnh hơn về lực lượng vũ trang tập trung, về trang bị vũ khí, nên chúng thường muốn đánh nhanh, thắng nhanh, lợi dụng tối đa ưu thế đó. Vì thế, phải đánh lâu dài để chuyển yếu thành mạnh, phân tán lực lượng tập trung của đối phương mà tiêu hao, tiêu diệt đối phương, làm cho đối phương mạnh trở thành yếu, phá tan âm mưu đánh chớp nhoáng của đối phương. Quá trình đánh lâu dài, nhìn chung là quá trình liên tục tiến công đối phương, đánh bại từng bước, đánh đổ từng bộ phận, đánh bại từng âm mưu chiến lược của chúng, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại đối phương. Đặc biệt, phải có sự cố gắng chủ quan hết sức tích cực mới đánh được lâu dài, cuối cùng mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài có nghĩa là phải thực sự quán triệt vào mọi công tác tổ chức và tư tưởng của cuộc kháng chiến. Phải ra sức tranh thủ nhân dân, đánh bại mọi âm mưu giành dân, lấn đất của đối phương; vừa tiến công, vừa tiêu diệt lực lượng đối phương, vừa xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt, ra sức củng cố hậu phương, căn cứ địa, thực hiện càng đánh, càng mạnh.
Đánh lâu dài không có nghĩa là đánh mãi, đánh không có mốc chiến đấu, mà phải kết hợp lực, thế, thời cơ, thời gian để giành chiến thắng. Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng quân sự của nền quân sự Việt Nam, khi nói về thế và lực đã giải thích: “Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh nhấc bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”[2]. Ngoài ra, vấn đề thời cơ cũng là một vấn đề mang tính quyết định, phải có quyết tâm tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi. Để phát huy hiệu quả của lực, thế, thời, cần phải có mưu kế đánh đối phương. Những vấn đề này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau. Thế, lực vận động thì tạo ra thời; biết dùng mưu thì hạn chế được cái mạnh của đối phương, phát huy được cái mạnh, tạo điều kiện chuyển biến về chất ở thời điểm quyết định để giành thắng lợi.
Ngoài ra, tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu còn luôn phải gắn với các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, bởi đây là những nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh, trong đó nhân hoà là quan trọng, bởi “trong hai phe chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hoà là phe ấy thắng”[3] và vì một lẽ đơn giản: Có nhân hoà mới có lực lượng, mới tạo được thế trận, mới tạo ra thời cơ và tranh thủ được thời cơ. Một khi “lòng yêu nước của đồng bào nhập với hình thế hiểm trở của núi sông, thành một lực lượng vô địch”[4], thì nó sẽ đánh tan mọi cuộc tấn công của quân thù.
Như vậy, trong lúc đánh lâu dài, luôn luôn tích cực, khẩn trương tìm đối phương mà đánh, mà tiêu diệt chúng một cách nhanh chóng, không ngừng tranh thủ thời cơ và thời gian để phát triển thế chiến lược tiến công, ngày càng thu được nhiều thắng lợi to lớn hơn, dẫn đến thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh thần thánh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc.
Nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam là nghệ thuật vận dụng chiến lược dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng
Suốt mấy chục năm qua, các cuộc chiến tranh cách mạng Đảng CSVN lãnh đạo đã chủ yếu dựa và sức mạnh của con người Việt Nam, của đất nước Việt Nam, của truyền thống dân tộc, của chế độ xã hội tiên tiến đang được xây dựng và phát triển. Đồng thời, không quên tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ ngày càng to lớn của cách mạng thế giới, mà chỗ dựa vững chắc là phe xã hội chủ nghĩa.
Đó là một quy luật giành thắng lợi của chiến tranh cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay, đồng thời là nghệ thuật chỉ đạo quân sự đúng đắn, đánh dấu một bước phát triển mới trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ được sự giúp đỡ quốc tế to lớn không chỉ là một yêu cầu khách quan của thời đại, mà còn là nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng CSVN. Nó chứng tỏ Đảng CSVN đã quán triệt sâu sắc quan điểm coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, có lòng tin tưởng vững chắc vào nhân dân, vào sức mạnh dân tộc, đồng thời, cũng quán triệt sâu sắc quan điểm coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đó, Đảng CSVN luôn biết phát huy nhân tố thuận lợi của thời đại để giành thắng lợi cho chiến tranh cách mạng. Ở đây cũng cần nắm vững mối quan hệ giữa việc phát huy tinh thần dựa vào sức mình là chính với việc ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Việt Nam chỉ có thể tranh thủ được sự giúp đỡ ngày càng to lớn, hiệu quả của quốc tế, nếu như biết phát huy được sức mạnh đoàn kết chiến đấu ngày càng khăng khít và mạnh mẽ của dân tộc. Điều đó có nghĩa là tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để tăng cường khả năng dựa vào sức mình là chính, chứ quyết không được nảy sinh tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Trong khi tranh thủ tối đa sự giúp đỡ quốc tế, cũng không quên làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, bởi “giúp bạn là tự giúp mình”.
Những luận giải trên đây nói lên mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời giữa vấn đề dựa vào sức mình là chính với ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế với việc làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Trong tổng thể ấy, một sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp giữa nội lực và ngoại lực được tạo ra, được nhanh chóng phát huy để giành chiến thắng.
Nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam là nghệ thuật quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công đi đôi với giành thế chủ động trong chiến tranh
Cách mạng là tiến công, chiến tranh là tiến công, “chỉ có tiến chứ không có thoái”[5]. Chỉ có tiến công kiên quyết và liên tục mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Có tiến công mới giành được thế chủ động, và ngược lại, có nắm được quyền chủ động, mới đảm bảo phát triển không ngừng thế tiến công. Giữ được thế chủ động thì thế nào cũng thắng, không thắng to, thì thắng nhỏ. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng nếu không tiến thì tức là thoái và nếu thoái thì những thắng lợi đã đạt được sẽ không thể củng cố và phát triển. Vì thế, kháng chiến của nhân dân Việt Nam phải “kiên quyết không ngừng thế tấn công”[6]. Trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi, Trường Chinh nhấn mạnh: “Tiến công là một cách duy nhất hiệu nghiệm để tiêu diệt đối phương. Đánh giặc mà không tiến công thì không phải là đánh giặc”[7] và “tiến công là một cái thuật. Muốn tiến công được thắng lợi, phải biết người, biết mình, xét không gian và thời gian; tập trung đầy đủ và nhanh chóng, đánh tích cực, linh hoạt và mau lẹ”[8].
Đánh giá đúng đắn, sáng suốt về đặc điểm, xu thế phát triển của lực lượng so sánh giữa Việt Nam  và đối phương trên chiến trường trong thời đại ngày nay, Đảng CSVN, Hồ Chí Minh chỉ rõ quy luật giành thắng lợi của cách mạng là một quá trình tiến công đối phương rất chủ động, tích cực, kiên quyết, liên tục, chỉ có tiến không có thoái, thoái chỉ là bộ phận và tạm thời để tiếp tục tiến lên. Phải tiến công đối phương bằng mọi lực lượng, mọi hình thức, mọi quy mô, đánh lùi đối phương từng bước đi đến thắng lợi hoàn toàn.
 Tuy nhiên, trong khi nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, quyết không được phiêu liêu, mạo hiểm, mà phải biết cách tiến công. Biết cách tiến công là tiến công bằng mọi lực lượng, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, ở mọi lúc, mọi nơi, đặc biệt là phải biết tiến công vào những nơi hiểm yếu và hiểm yếu nhất của quân thù. Phải biết tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu. Những nơi hiểm yếu của đối phương thường là những nơi lực lượng yếu và mỏng, có nhiều sơ hở, hoặc là những nơi đối phương không phát huy được sở trường, còn Việt Nam lại phát huy được ưu thế của mình. Đánh trúng những chỗ yếu, những chỗ hiểm của đối phương, thì lực nhỏ cũng có thể tạo nên hiệu quả lớn.
Đảng CSVN còn chỉ ra rằng, muốn tiến công giành được thắng lợi, không những phải có nghệ thuật tiến công kiên quyết, sáng tạo, mà còn phải biết tự vệ, biết giữ gìn và tích luỹ lực lượng, phải biết tiến công để phòng ngự, lấy kiên quyết tiến công đối phương làm cách tự vệ tốt nhất. Quán triệt tư tưởng tiến công đối phương, đồng thời ra sức giữ gìn, bồi dưỡng phát triển lực lượng, tránh và giảm đến mức thấp nhất những tổn thất không đáng xảy ra, không chấp nhận những trận chiến đấu bất lợi, mà tận dụng khả năng, tạo điều kiện để đánh những trận chắc thắng. Cần ghi nhớ rằng, chiến lược tiến công không loại trừ phòng ngự khi cần thiết. Về mối quan hệ giữa tiến công và phòng ngự, tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi chỉ ra rằng: Giữ chỗ nào thì “phối hợp chiến thuật du kích, vận động mà tiến công, bao vây đối phương, chặt đứt đường giao thông tiếp tế của địch, đánh bên sườn hay sau lưng địch, khiến địch phải rút lui, hoặc đem quân đánh vào chỗ tất yếu, khiến địch phải sẻ một phần lực lượng đang tiến công ta, đem ứng cứu chỗ đó, làm cho thế phòng ngự của ta chỗ này mạnh thêm”[9]. Như vậy, bao giờ cũng phải giữ thế tiến công, song trong những điều kiện cụ thể, nhất định phải phòng ngự, thì phòng ngự cũng phải quán triệt tư tưởng tiến công, “chứ không phải rút vào một chỗ để cho quân thù tha hồ đánh phá”[10]. Điều đó có nghĩa là muốn giữ, muốn phòng ngự, thì phải tìm cách tiến công quân thù một cách có hiệu quả hơn, tiến công vào nơi hiểm yếu của đối phương, vào lúc chúng chủ quan, sơ hở. Đây cũng là một quy luật cơ bản của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình 30 năm chỉ đạo thực hiện chiến tranh cách mạng bảo vệ và giải phóng Tổ quốc (1945-1975), nghệ thuật quân sự Việt Nam đã được hình thành phát triển và bổ sung, thể hiện rất rõ qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Trong kháng chiến chống Pháp, nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam đã được thể hiện rõ nét.
Ngày 19-12-1946, hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, tiếng súng toàn quốc kháng chiến đã bùng nổ. Từ đây, cả dân tộc đi vào cuộc trường chinh suốt chín năm không nghỉ.
Nhìn chung, cuộc kháng chiến chín năm của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn chiến lược và mỗi giai đoạn là một bước tiến mới, là một nấc thang đi lên của con đường chiến thắng.
Từ Nam Bộ kháng chiến đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947 là giai đoạn thứ nhất của cuộc kháng chiến. Ở giai đoạn này, nhân dân Việt Nam  dưới sự lãnh đạo của Đảng đã ra sức giữ gìn và củng cố lực lượng, kết hợp kháng chiến ở miền Nam với xây dựng và bảo vệ chế độ mới trên cả nước, tiến lên phát động toàn quốc kháng chiến, đánh thắng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp.
Giai đoạn thứ hai được bắt đầu từ sau chiến thắng Việt Bắc đến chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950. Đây là giai đoạn đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du kích, từng bước tiến lên vận động chiến, làm thất bại một bước âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh và âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực dân Pháp. Đặc biệt, trong giai đoạn này, với sự kiện Cách mạng Trung Quốc thành công (năm 1949) đã cổ vũ lớn lao đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Và kể từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ hết sức thiết thực từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là từ Liên Xô và Trung Quốc. Cũng từ năm 1950, đế quốc Mỹ ngày càng rót nhiều viện trợ về trang bị, vũ khí vào chiến trường Đông Dương cho Pháp, can thiệp ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến. Những chuyển biến này đã tác động không nhỏ tới cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam
Giai đoạn thứ ba là từ chiến dịch Biên giới đến kháng chiến thắng lợi (1954). Đây là giai đoạn phát triển tiến công và phản công, giữ vững và phát huy quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, với sự phối hợp chung của các chiến trường trong toàn quốc cùng chiến trường Lào và Campuchia, tiến lên mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam đã làm thất bại nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn thương lượng tại Hội nghị Giơ-ne-vơ và ký Hiệp định chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương ngày 21-7-1954.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng CSVN đã đánh giá đúng những tình thế cách mạng và lực lượng so sánh giữa hai bên trong các bước ngoặt của chiến tranh theo quan điểm của chiến tranh cách mạng. Phía Việt Nam, sau khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Việt Nam đã kịp thời mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại đó và 15 tháng sau đã phát động toàn quốc kháng chiến đúng thời cơ, ở thời điểm kẻ địch đã cố tình gây chiến, khi nhân dân Việt Nam “không thể nhịn thêm được nữa” và khi Việt Nam đã có sự chuẩn bị khá đầy đủ cả về quyết tâm, thực lực ở bước khởi đầu. Trong quá trình chỉ đạo chiến tranh, nhằm đánh thắng về quân sự một đối phương lớn mạnh, nghệ thuật chỉ đạo phát triển thế tiến công của chiến tranh cách mạng là đánh thắng từng kế hoạch chiến lược của kẻ thù, tạo những bước nhảy của cách mạng và chiến tranh. Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là những mốc lịch sử vẻ vang, những đòn phản công và tiến công tạo chuyển biến chiến lược.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân, của cuộc đấu tranh quân sự mà Việt Nam phải tiến hành là quân đội viễn chinh xâm lược nhà nghề thực dân Pháp, trong đó bao gồm cả quân đội của chính quốc và một bộ phận khá lớn những đội quân lê dương hung ác, được coi là thiện chiến. Trang bị vũ khí của đối phương so với phía Việt Nam vào loại dồi dào, hiện đại hơn hẳn. Hơn nữa, kể từ năm 1950, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ào ạt rót vũ khí và “viện trợ” cả về chính trị cho Pháp, thì tình hình so sánh lực lượng lại thêm phần khó khăn hơn đối với Việt Nam. Song, qua đấu trí, đấu lực trực tiếp với tất cả các chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật quân sự của chúng, Đảng CSVN đã nhận định một cách biện chứng về sự thay đổi trong tương quan so sánh lực lượng giữa hai bên trong quá trình kháng chiến; từ đó, Đảng CSVN đã có những đối sách đối phó trở lại đầy hiệu quả và ngày càng làm chủ tình thế cách mạng. Trong quá trình đấu tranh đó, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam của Đảng CSVN đã liên tục được phát triển, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh. Đánh giá đúng tình thế cách mạng và lực lượng so sánh chung giữa cách mạng và phản cách mạng và tận dụng những thời cơ mới xuất hiện là một nét nổi bật trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng CSVN trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là một nội dung quan trọng trong phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng theo đường lối của Đảng CSVN. Nó nhấn mạnh rằng: Trong chỉ đạo chiến lược, điều khiển chiến tranh, phải căn cứ vào quá trình phát triển của so sánh lực lượng giữa hai bên và tình thế cách mạng trong từng thời kỳ.
Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc của Đảng CSVN trong chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược là nghệ thuật kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích; kết hợp thế, lực và thời cơ, đánh đối phương bằng mưu trí, đánh bất ngờ; đánh đối phương bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí, với nhiều cách khác nhau, hạn chế đối phương đánh theo sở trường của chúng,....
Chiến tranh du kích là một hình thức chiến tranh cơ bản của dân tộc nhỏ chống lại ách thống trị thực dân và đánh bại chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, là một phương thức khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, bảo vệ chính quyền ở cơ sở, giành và giữ quyền làm chủ ở cơ sở trong chiến tranh giải phóng. Chiến tranh du kích không chỉ là một vấn đề chiến lược quân sự, mà còn là một vấn đề chiến lược cách mạng. Đánh du kích là hình thức tác chiến cơ bản của chiến tranh du kích, giữ một vai trò rất quan trọng trong cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài. Với cách đánh du kích vận động chiến, lực lượng vũ trang Việt Nam hoạt động hết sức linh hoạt và cơ động. Trong khi đó, đối phương phần thì không thông thạo địa bàn, phần nữa là do những thứ vũ khí hiện đại được trang bị chỉ thích hợp với kiểu chiến tranh quy ước, không thích hợp với một cuộc chiến tranh đòi hỏi phải có sự cơ động linh hoạt.
Trong chỉ đạo kháng chiến, Đảng CSVN đã khẳng định du kích vận động chiến là cách đánh của toàn dân, không phải của riêng bộ đội, đồng thời, phải tiến công đối phương cả ở nội tuyến lẫn ngoại tuyến. Đó là cách đánh của quần chúng nhân dân, du kích, dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và những bộ phận chủ lực hoạt động phân tán, dựa vào tinh thần anh dũng mưu trí cao mà chiến thắng đối phương có vũ khí hiện đại, dùng hành động bất ngờ, linh hoạt “lai vô ảnh, khứ vô tung”, đánh nhanh, chuyển nhanh, khi phân tán, lúc tập trung, đánh đối phương khắp nơi và mọi lúc, tận dụng mọi thứ vũ khí, đánh bằng mọi hình thức, làm hao mòn quân, làm đối phương sa sút về tinh thần. Do đó, với cách đánh này, không những đã phát huy được sở trường, thế mạnh của mình, mà còn hạn chế được cách đánh sở trường của đối phương, không cho đối phương đánh theo cách mà chúng muốn.
Lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng CSVN đã khẳng định du kích vận động chiến là cách đánh phù hợp với cuộc chiến tranh của nhân dân. Nó là cách đánh phát huy được yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hoà của chiến tranh nhân dân diễn ra trên đất nước mình, phát huy được thế chủ động tiến công, đẩy đối phương vào tình thế bị động, lúng túng và lo sợ.
Lý luận và thực tiễn lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng CSVN cũng chỉ ra rằng: Không thể giành thắng lợi quyết định, không thể đạt được mục đích chính trị của chiến tranh chỉ bằng chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa phương. Để chiến tranh nhanh chóng đi tới thắng lợi, không thể thiếu đi vai trò và tác dụng chiến lược mấu chốt của chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực. Sức mạnh của chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực luôn kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân du kích, với phong trào đấu tranh cách mạng, đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng cả ở thành thị và nông thôn. Chiến tranh du kích rộng lớn chính là cái nền, là chỗ dựa vững chắc của chiến tranh chính quy. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, chiến tranh chính quy mới là yếu tố quyết định nhất trong chiến tranh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, việc tiến hành các chiến dịch trên quy mô khác nhau từ nhỏ đến lớn và các loại hình chiến thuật cho đến chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ mới là nhân tố quyết định làm thay đổi cục diện chiến tranh, quyết định sự kết thúc thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Khoa học và nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc và đánh giặc toàn diện của Đảng CSVN trong kháng chiến chống thực dân Pháp còn thể hiện ở việc quán triệt tư tưởng tiến công, đánh đối phương trên thế mạnh, hãm đối phương vào thế phòng ngự bị động, đối phó. Khi quân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Đảng CSVN đã chủ trương phát huy các chiến thuật du kích ngăn cản, làm chậm bước tiến công của đối phương, đồng thời chọn mục tiêu thích hợp, chủ động tiến công tiêu hao đối phương, trong khi “tránh những trận bất lợi”[11], nhân dân Việt Nam “tích cực tiến công từng bộ phận để tiêu diện bộ phận địch”[12]. Sau chiến thắng Việt Bắc 1947, Việt Nam chủ trương “bắt địch chuyển sang thế thủ”[13]. Thế tiến công chủ động và rộng khắp của chiến tranh du kích từ năm 1948 đã mở ra thế tiến công chiến lược ngày càng phát triển trên khắp chiến trường Đông Dương. Thế tiến công quy mô ngày càng lớn bằng cả chiến tranh du kích và chính quy không ngừng phát triển. Các chiến dịch lớn được mở: Biên giới, Hoà bình, Tây Bắc, Thượng Lào… và cuối cùng là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết chỉ rõ: “Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”[14]. Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt được toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ, góp phần quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm của dân tộc.
Như vậy, nắm vững quyền chủ động chiến lược, nhân dân Việt Nam đã tạo ra sức mạnh tiến công áp đảo và đánh bại đối phương. Đó chính là một thành công nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nói chung, cũng như chỉ đạo chiến lược quân sự của Đảng CSVN. Đó là nghệ thuật vận dụng tư tưởng chiến lược tiến công, giành và phát huy quyền chủ động chiến lược.
 Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Pháp còn được thể hiện ở việc quán triệt tư tưởng tích cực tiêu diệt cả sinh lực và phương tiện chiến tranh, cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị của chúng; tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, bí mật, đánh đối phương bất ngờ, nắm thời cơ, chọn đúng những hình thức, phương pháp tác chiến, tổ chức, sử dụng lực lượng thích hợp, nâng cao hiệu lực chiến đấu của mọi lực lượng, mọi thứ quân, lấy chất lượng làm chính.
Nói chung, trong kháng chiến chống Pháp, chiến lược của Việt Nam là lấy ít thắng nhiều và chiến thuật là lấy nhiều thắng ít, về chiến dịch và chiến đấu, khi cần thiết thì tập trung lực lượng nhiều hơn đối phương để tiêu diệt chúng, tích cực tiến công, giải quyết mau trong từng trận. Trong kháng chiến, Đảng CSVN và nhân dân Việt Nam đã giải quyết thành công, đồng thời sáng tạo nên nhiều loại hình chiến dịch và chiến thuật. Việc giải quyết thành công các vấn đề chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã làm thành cơ sở nền tảng của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới về chất nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc trong thời đại mới. Đó là một nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến. Những bài học lý luận quý báu của nghệ thuật quân sự trong thời kỳ này được Đảng CSVN tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, trở thành một đóng góp to lớn cho kho tàng lý luận quân sự Việt Nam và thế giới.
 Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nghệ thuật chỉ đạo các hoạt động đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam, Bắc.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ kinh nghiệm của kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng CSVN đã sớm xác định đúng kẻ thù ngay khi giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam vừa bắt đầu (7-1954). Kể từ đây (1954), kẻ thù nguy hiểm của cách mạng Việt Nam không phải là tên thực dân già cỗi và đang suy yếu như đế quốc Pháp nữa, mà là đế quốc Mỹ - tên sen đầm quốc tế, tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế, quốc phòng mạnh bậc nhất thế giới. Chúng nhảy vào miền Nam với âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của chúng.
Với kinh nghiệm từ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng CSVN đã thấy được sức mạnh của đế quốc Mỹ, từ đó có quan điểm đánh giá, so sánh lực lượng giữa hai bên đúng đắn, rất cách mạng và khoa học. Đảng CSVN không chỉ thấy rõ chỗ mạnh của đối phương, mà còn thấy cả những điểm yếu của chúng; không chỉ thấy hiện trạng, mà quan trọng hơn còn thấy xu thế phát triển của lực lượng cả hai bên. Tuy phía Việt Nam ít hơn đối phương về quân số, về trang bị vũ khí, nhưng lại có sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; do đó, thắng lợi nhất định sẽ thuộc về nhân dân Việt Nam.
Những kinh nghiệm của kháng chiến chống thực dân Pháp là “cái vốn” cực kỳ quan trọng để Đảng CSVN, nhân dân Việt Nam bước vào kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược không phải tìm tòi, làm thử, mà có thể thực hiện ngay được và ngày càng phát triển sáng tạo để phù hợp với điều kiện thực tiễn mới. Kế thừa, phát huy truyền thống đánh giặc của cha ông, đặc biệt là những bài học kinh nghiệm trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai, Đảng CSVN đã chủ động, sáng tạo đề ra đường lối chiến tranh cách mạng đúng đắn. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân chống Mỹ cũng đi từ thấp đến cao và dần dần hoàn chỉnh. Đường lối đó có nhiều nét độc đáo, là bước phát triển đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp lên một tầm cao mới. Đó là tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính một cách chủ động, linh hoạt, đánh đối phương bằng ba mũi giáp công, đánh đối phương trên ba vùng chiến lược, từng bước đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào... Đỉnh cao là sự kết hợp đấu tranh chính trị - quân sự - ngoại giao. Đây là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện với mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới thống nhất nước nhà. Lực lượng tiến hành chiến tranh là toàn dân đánh giặc, bao gồm lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt và lực lượng chính trị của quần chúng. Lực lượng chính trị của quần chúng là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, đồng thời là chỗ dựa vững chắc để lực lượng vũ trang hoạt động tác chiến hiệu quả và phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công, phản công đối phương. Lực lượng chính trị trong kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam được tổ chức thành những đội quân chính trị. Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ có phạm vi tương đối rộng lớn, không chỉ bó hẹp trong hoạt động đấu tranh vũ trang. Một cách tổng quát, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân thời kỳ chống Mỹ, cứu nước là cả nước được tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng xã, đường phố là một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trên ba vùng chiến lược với ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp tiêu diệt đối phương với giành và giữ quyền làm chủ, chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với các binh đoàn chủ lực.
Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được tiến hành dựa trên cơ sở của đường lối, phương châm và chiến lược tổng hợp của chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, mục đích là tạo ra sức mạnh tổng hợp, hiện thực để đánh thắng chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đó là sự phát triển phương pháp cách mạng và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân trên hai miền Nam, Bắc, phù hợp với hai chiến lược cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc) được tiến hành đồng thời ở cả hai miền và gắn bó chặt chẽ với nhau, gắn bó chặt chẽ với quá trình cách mạng và chiến tranh cách mạng của ba nước Đông Dương, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của các trào lưu cách mạng thời đại. Đó còn là nghệ thuật kết hợp tiến công đối phương ở miền Nam với bảo vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của Không quân, Hải quân Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc và tăng cường chi viện sức mạnh mọi mặt cho miền Nam, phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường Việt Nam với chiến trường hai nước bạn Lào, Campuchia, tạo ra thế chiến lược tiến công của ba nước Đông Dương.
Cả nước đánh giặc, nhiệm vụ của hai miền Nam, Bắc gắn bó chặt chẽ, quyện chặt vào nhau để thúc đẩy nhau cùng phát triển và đi tới thắng lợi; hai hình thức chiến tranh du kích và chính quy luôn luôn kết hợp chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau và tạo ra sức mạnh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng luôn luôn quán triệt chiến lược tiến công. Đó là chiến lược toàn dân đánh giặc, dựa vào sức mạnh tổng hợp của hai lực lượng quân sự và chính trị, kết hợp giữa tác chiến của lực lượng vũ trang với khởi nghĩa của quần chúng cách mạng. Đây cũng là chiến lược tiến công đối phương bằng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị), kết hợp giữa tiến công với giành quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt đối phương và tiêu diệt đối phương để làm chủ ngày càng vững chắc hơn. Đó còn là chiến lược luôn giành thế chủ động và quyền chủ động tiến công đối phương về mặt quân sự, tiến công một cách tích cực, kiên quyết và liên tục ở mọi nơi, mọi lúc, buộc đối phương phải đánh theo cách đánh của Việt Nam, hạn chế tối đa sở trường của đối phương.
Ở miền Nam Việt Nam, trong quá trình đấu tranh chống ách thống trị của thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, cách mạng miền Nam đã chuyển sang thế tiến công chiến lược bằng phong trào “đồng khởi” những năm 1959-1960. Sau đó, cách mạng miền Nam đã không ngừng phát triển thế tiến công, mở rộng khởi nghĩa từng phần và đấu tranh chính trị của quần chúng, mở rộng chiến tranh du kích và từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến tập trung, vận dụng phương châm quân sự và chính trị song song, liên tiếp đánh bại các loại hình chiến tranh của đối phương. Mặc dù đế quốc Mỹ không ngừng tăng cường đổ binh lính và vũ khí vào chiến trường miền Nam, song Việt Nam đã kiên quyết giữ vững thế chủ động và liên tục tiến công đối phương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến bằng chiến dịch lịch sử mùa Xuân 1975.
Nói một cách chung nhất, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước là nghệ thuật tiến công kiên quyết, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao với hình thức phong phú, đa dạng và hiệu lực chiến lược ngày càng cao. Đó là nghệ thuật kết hợp chiến đấu với xây dựng, phát triển lực lượng, kết hợp chiến đấu với sản xuất và không ngừng ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh, không ngừng tăng cường thực lực của cuộc kháng chiến, càng đánh, càng mạnh. Chiến tranh nhân dân kết hợp với chiến tranh hiện đại trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước là đỉnh cao của chiến tranh cách mạng Việt Nam, chiến tranh nhân dân Việt Nam, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam.   
  

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tập 4, tr. 298.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 455.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 463.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 366.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 314.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 3, tr. 287.
[7]Trường Chinh , Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, 1947, tr. 122.
[8]Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 124.
[9] Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 120.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 3, tr. 491.
[11] Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1976, tập 2, tr.125.
[12] Văn kiện quân sự của Đảng, Sđd, tập 2, tr. 125.
[13] Văn kiện quân sự của Đảng, Sđd, tập 2, tr. 125.
[14]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 1, tr. 87.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!