Hồ
Khang và Hồ Hoàng Thái
1.Trật tự Mandala, một diễn giải xã hội Đông
Nam Á
Các
nhà nước Đông Nam Á cổ, những Nhà nước đã
xuất hiện rồi biến mất - những huyền thoại xã hội được ghi chép tỉ mỉ trong các
bi kí, đến nay vẫn còn là các hồ sơ lịch
sử thú vị để bàn luận. Người ta có thể mô tả lại chúng bằng toàn bộ vẻ rạng
rỡ, sự trù phú, đầy huyền tích bằng một ấn tượng thực chứng sử học sinh động
thông qua những bản văn ghi chép (mà không cần viện dẫn nhiều đến phép phê phán
sử liệu một cách nghiêm khắc?). Thế giới
Đông Nam Á, qua đó, được khắc họa trong ấn tượng sử gia như một bức tranh
sặc sỡ và sinh động, đầy những đoàn người ngược xuôi cùng dòng hàng hóa tấp
nập. Sự thể ấy đã xua đi phần nào cái cảm quan nghèo nàn về xứ thuộc địa hèn
kém, về những xã hội bế tắc tự cấp chôn mình trong một thứ chủ nghĩa bộ lạc khép kín.
Màu
nền của bức tranh nhận thức ấy là lý
thuyết về Mandala, hay nét phác họa về một kiểu mẫu tổ chức quyền lực vĩ mô ở Đông Nam Á cổ xưa. Mandala có lẽ là nét vẽ nỗ lực nhất nhằm
kết nối toàn bộ lịch sử Đông Nam Á cổ xưa bằng những hình động đặc trưng, để
khẳng định dứt khoát về sự tồn tại của trường
vận động Đông Nam Á, một dấu hiệu bản chất tiên quyết của khu vực văn minh.
Còn lời biện hộ nào tốt hơn cho sự phát triển liên tục của khu vực, cho nét khu
biệt độc đáo của Đông Nam Á[1]?
O.W. Wolters, cha đẻ của ý tưởng trật tự
Mandala đã tóm gọn lại trong một lời tuyệt đẹp: “Tấm bản đồ của Đông Nam Á cổ xưa, tiến hóa từ mạng lưới của những người định cư nhỏ lẻ, vén lộ chính
mình trong những bản ghi lịch sử như là một công trình gá lắp thường được chồng
lên bởi những Mandala”[2].
Cái ý tưởng then chốt về một quyền lực bao phủ, một trật tự vĩ mô (siêu vĩ mô?)
bao trùm, đã tạo nên cột mốc nhận thức Đông Nam Á vững chắc. Ngay cả khi đứng
trước phê phán về lý thuyết, ta sẽ thấy, cái nhìn của Wolter là rất ưu việt,
đầy gợi mở để trông thấy viễn cảnh nghiên cứu Đông Nam Á. Cống hiến chính của Wolter
thể hiện qua hai khía cạnh của học thuyết
Mandala: (i) mô hình điều tiết quyền lực giữa các cộng đồng lân cận nhau
hay cùng một vùng; và (ii) nhân tố quyết định tình trạng và sự vận hành/ biến
đổi của Mandala.
Trước hết, Mandala là một trật tự hữu tâm và
hướng tâm. Sự phân rẽ giữa các cộng đồng trong cùng một khu vực có khả năng
tương tác, tiếp xúc nhau cả về thương mại, văn hóa, lẫn quân sự là nền tảng để
hình thành một Mandala. Thêm vào đó, chính vì sức mạnh và ảnh hưởng của một số
cộng đồng, xét trong quan hệ với những cộng đồng khác trong nội vùng, là vượt
ra ngoài nhu cầu lãnh thổ của bản
thân cộng đồng đó (hay nhu cầu bành trướng địa bàn sinh cư), đã dẫn tới sự hình
thành một vùng ảnh hưởng. Vùng ảnh
hưởng này, mặc dù đương nhiên phải được củng cố bằng quân sự và kinh tế cũng
như được lan truyền bằng văn hóa, lại không kiến tạo nên một quyền lực độc
đoán/ nhất thể, do đó cũng không hình thành nên những biên giới cứng nhắc. Do
đó, trong tình trạng cố định/ nhất thời, Mandala có thể được miêu tả như chính thể ngân hà, “nơi vô số tiêu điểm
của quyền lực quan hệ tương tác với nhau một cách năng động”[3].
Ở đây, vai trò của sự nổi lên từ một cộng
đồng trung tâm cũng như sự thiết lập vùng
ảnh hưởng của nó chính là căn bản của Mandala.
Luận đề kép này đã ngầm chứa theo nó hai kết luận
sóng đôi: (a) Mandala không phải là một
thiết chế, mà là một trật tự quan hệ mang
tính chia tầng quyền lực (do đó, những suy luận siêu hình về một tính chất
Mandala của Đông Nam Á chỉ đúng trong chừng mực nó ám chỉ kiểu mẫu của quan hệ
giữa các cộng đồng người); và (b) Mandala ám chỉ tình trạng một khu vực hơn là một định dạng Nhà nước (như thế, khi nhà
sử học nhập đôi vùng ảnh hưởng vốn là
một căn bản của Mandala với bản thân Mandala – hoặc nhập đôi sức mạnh của một
Nhà nước với ảnh hưởng của nó -, thì phép hoán dụ lịch sử này sẽ đưa lại hiệu quả nghiên cứu tồi tệ: nó sẽ khiến cái nhìn Mandala trở thành cái nhìn phổ
quát, hiện diện mọi nơi một cách tùy tiện trong mọi cấu trúc quyền lực, mọi
hiện tượng lịch sử ở Đông Nam Á cổ một cách tùy tiện, ngụy biện và đôi khi
cưỡng gán).
Hai
kết luận sóng đôi này sẽ hợp thành một định đề tinh quái gây bối rối khi những
người vận dụng Wolter vào cái nhìn phân tích các Nhà nước cổ Đông Nam Á cố gắng khái quát tính chất Nhà nước cho một
khu vực. Nhà nước trong một Mandala bởi thế đã vô tình được dán nhãn như bản thân Mandala đó. Làm sao có thể giả
định rằng một trật tự quyền lực (mang tính miêu tả - văn hóa hơn là quy luật –
chính trị) lại được xem chẳng khác nào một siêu
cấu trúc (ta sẽ thấy, chính cái nhìn siêu cấu trúc về Mandala sẽ khiến cách
diễn giải nó có thiên hướng xem nó như một thực
thể lịch sử tự vận động)? Ngay cả
việc nhìn nhận phương thức vận hành và tiến triển của Nhà nước Đông Nam Á cổ
như một biểu hiện của Mandala cũng cần phải đặt lại nghiêm túc: liệu có thể
nhìn những giới hạn nghèo nàn của lịch sử như một kết quả có ý hướng của trật tự siêu vĩ mô Mandala? Chính từ sự đặt lại này,
nhà nghiên cứu sẽ còn đối mặt trực tiếp với một song đề nữa: liệu Mandala chỉ
là sự khái quát (từ văn hóa – tôn giáo như chính tựa đề tác phẩm của Wolter)
những đặc tính lịch sử của Đông Nam Á (truyền thống) hay là một chiến lược quyền lực/ một trật tự điều phối sự vận hành của
các cộng đồng lẫn các nhà nước cổ? Chỉ có thể giải quyết song đề này về lý
thuyết nếu chấp nhận thêm một số giả định tranh cãi khác về cơ cấu xã hội –
thiết chế Đông Nam Á: xã hội phân mảnh hay xã hội phân tầng, cũng như Nhà nước
phân đoạn hay Nhà nước chuyên chế?
Khía cạnh thứ hai trong mô hình Wolter
là nhân tố vận hành Mandala sẽ giải
quyết những vấn đề đặt ra ở khía cạnh thứ nhất. Nếu khía cạnh thứ nhất cho thấy
thuộc tính vĩ mô của Đông Nam Á về
quan hệ giữa các cộng đồng nối kết nhau, thì khía cạnh thứ hai chỉ ra cơ chế vi mô duy trì trung tâm của
Mandala. Gác sang một bên tranh luận lý thuyết về phép hoán dụ giữa Mandala và
trung tâm của nó, tôi muốn đề cập ở đây sơ đồ hoàn chỉnh của Mandala dù nó hàm
chứa một mâu thuẫn chí tử về mặt lý thuyết chính trị.
Wolter
đã giải quyết vấn đề bản chất của những vương quốc đã biến mất (cái cơ chế vi
mô của Mandala) bằng một cấu trúc quyền lực đậm
tính Mandala theo lối nhân học chính trị
khi xem xét quyền lực không ở sự tập trung cao độ của nó hay không trong những
biểu hiện cao độ của quyền lực, mà theo những quan hệ quyền lực, các nghi thức
duy trì quyền lực cùng các thiết chế phi văn bản dùng để biểu dương và khẳng
định ảnh hưởng (theo lối tạo tác anh
hùng/ sáng tạo huyền thoại). Heidhues
đã tóm tắt tài tình luận điểm này như sau: “Mô
tả có sức thuyết phục nhất về bản chất của những quốc gia này là mô tả của nhà
sử học Oliver Wolters đưa ra. Ông đề xuất rằng trong những quốc gia xưa nhất ở
Đông Nam Á, quyền lực không dựa trên nguồn gốc từ một dòng dõi lâu đời, mà dựa
trên những phẩm chất tinh thần cá nhân.
Wolters tin rằng, những quốc gia xưa nhất ở Đông Nam Á ra đời khi những khu
định cư nhỏ kết hợp với nhau quanh cái mà ông gọi là “những người ưu việt”,
những người có thể thuyết phục những người khác tin theo họ bằng tài năng tinh
thần hơn người của họ. Những khu định cư lân cận sau đó có lẽ cũng nhận ra ánh hòa
quang nổi bật của một con người như thế,
tự liên minh với ông ta để được che chở hoặc để tăng thêm địa vị của riêng họ.
Khi một người ưu việt như thế chết, việc nâng ông ta lên ngang địa vị của những
tổ tiên đáng kính có thể đã đem lại sự thống nhất qua thời gian cho cộng đồng…
Các khu định cư liên minh đã xây dựng
một mandala, một dạng hình học đầy quyền lực về tinh thần, quanh khu định
cư trung tâm… Hình thể Mandala có thể được trình bày như một khối liên kết địa vị chính trị; một vương quốc lý tưởng như
thế loại trừ được những mối đe dọa và những ảnh hưởng không mong muốn. Ngay
trung tâm sẽ là người cai trị, được vây quanh bởi những cận thần của ông ta…”[4]
(In đậm do tôi nhấn mạnh).
Tôi
cho rằng điểm mấu chốt của lý thuyết
Mandala quả thực cần được phát hiện từ cấp độ vi mô của nó với các nhân tố:
(a) người ưu việt; (b) sự ảnh hưởng của người
ưu việt đối với những khu định cư lân cận; và (c) hình học về quyền lực
tinh thần – khối liên minh chính trị (quyền lực mềm hay quyền lực xét như ảnh
hưởng). Điều sẽ làm nảy sinh tranh luận thích đáng chính ở chỗ (a) và (b) lại
tập trung vào tình thế giải thể ảnh hưởng huyết tộc của quyền lực, trong khi
với các xã hội cổ xưa thì tính huyết tộc
lại là đặc trưng của quyền lực ngay cả khi sự trộn lẫn các công xã xảy ra bằng
việc biến phụ nữ thành vật di chuyển/ vật trao đổi như ngôn ngữ. Bên cạnh đó,
quá trình tạo tác các nhân thần, thần
tượng chung cùng sự sản sinh huyền thoại đi kèm các nghi lễ trao quyền cùng các
nhóm xã hội đảm nhiệm sự tuyên truyền
thần tượng cũng sẽ đặt lại một câu hỏi về nguồn gốc/ bối cảnh của những người ưu việt lẫn các liên minh chính trị.
Ở dạng
tập trung cao của quyền lực, rõ ràng tính
huyết tộc chống lại tính cá nhân
trong chừng mực cá nhân ưu việt nằm ngoài huyết tộc có quyền lực/ ưu thế chính
trị. Trong lịch sử, các vương triều, dòng họ lớn luôn có chiến lược, phương
pháp để kiềm chế các cá nhân ưu việt/ nổi trội có khả năng gây ảnh hưởng đến
ảnh hưởng của dòng họ (bằng cách thu nạp, khống chế, sát hại…). Nhưng mâu thuẫn
giữa huyết tộc và cá nhân sẽ bị làm mờ đi không phải trong sự tiến triển của
đời sống chính trị, mà trong tình trạng chiến tranh giữa các cộng đồng. Chiến
tranh sẽ cùng lúc bào mòn vai trò chủ đạo của các huyết tộc mạnh, đồng thời
kiến tạo nên một không gian tiếp xúc hay mối liên hệ siêu cộng đồng lên mọi đối
tượng tham gia vào nó. Chính vì thế, dấu ấn của các anh hùng chiến tranh bao giờ cũng là trung tâm của huyền thoại –
thậm chí, các nhân vật huyền thoại dân tộc trong bối cảnh nào cũng lai ghép một
số đặc tính của anh hùng chiến tranh (cho dù buộc phải thừa nhận rằng các đức
tính tiêu cực, nhỏ nhen, khôn ngoan cũng thấm dần vào huyền thoại). Bản chất
của những người ưu việt ban đầu chính
là anh hùng chiến tranh như thế: họ
thường nổi lên trong cuộc chiến giữa các nhóm định cư thuộc các cộng đồng/ dân
tộc/ nhóm người va chạm nhau về vùng sinh tồn. Không hề ngạc nhiên, nhận định
này càng có sức thuyết phục khi ta thấy rằng các liên minh chính trị thường
được bảo đảm nhờ vào những hiệp ước mà căn cốt bao giờ cũng liên quan hoặc lấy
trung tâm là vấn đề nhị nguyên chiến
tranh/ hòa bình. Trong những giao kết của liên minh chính trị, sự trừng
phạt bằng bạo lực của số đông hơn với thiểu số phản bội được thêm vào hiệu lực
bằng uy tín của anh hùng chiến tranh,
hay những người ưu việt như đã nói.
Nhưng
những anh hùng chiến tranh cũng phải trải qua hai giai đoạn thiết lập ảnh
hưởng: (1) ảnh hưởng với chính cộng đồng mà anh ta nảy sinh và (2) ảnh hưởng
với các cộng đồng bên ngoài. Nếu công cụ chiến tranh với sự lan truyền chính
trị nhờ vào chuyện truyền khẩu thường hiệu quả vào thời chiến một cách trực
tiếp, thì thời bình nó đòi hỏi sự xuất hiện một tầng lớp xã hội nhất định nhằm
duy trì vị thế tinh thần của những người
ưu việt. Nó chính là hiện tượng lịch sử kinh điển của sự bắt tay giữa vương quyền với thần quyền. Đặc biệt ở Đông Nam Á, quá trình Ấn hóa đã kiến tạo cơ
sở cho lực lượng tinh thần xã hội này. Hơn nữa, ta sẽ thấy trong sự phân tích
về nhà Lý, chính lực lượng xã hội này cũng làm phai nhạt tính tự trị tinh thần của địa phương liên tục từ thế kỷ X đến thế
kỷ XIV và chỉ phục hồi phần nào đó vào nửa sau thế kỷ XV. Chính lực lượng tinh
thần xã hội này là trung gian chính trị đưa đến nhân tố (c), hoàn thiện cơ chế
vi mô của Mandala.
Bây giờ, Mandala hiện thân rõ rệt như một mạng
lưới tinh thần, một hình học quyền lực
tinh thần bằng những sợi dây quan hệ, các nghi thức trao quyền, một tình
trạng mong manh của trật tự. Sự thay thế hay biến mất của những người ưu việt
sẽ làm các cộng đồng trung tâm mất đi tính trung tâm của mình. Trong chừng mực
nào chiến tranh cùng các quan hệ lịch sử đảm bảo cho một Mandala giới hạn nó
trong biên giới mềm dẻo của mình, trong chừng mực ấy nó vẫn sẽ tồn tại vì luôn
luôn có một cộng đồng mạnh hơn các cộng đồng khác trong khu vực và tạo được sự
bền vững cho liên minh chính trị. Đáng
để nói thêm vào đây, Mandala là một môi trường chống đối nhà nước hơn là một
tình trạng sản sinh nhà nước. Nhà nước đòi hỏi sự xác lập một quyền lực công,
làm căn bản để thiết tạo nền hành chính công của nó, như thế gợi ý/ đòi hỏi sự
tập trung quyền lực; trong khi Mandala thường tạo nên những sức kéo quyền lực
khỏi sự tích tụ. Sự giằng co giữa khuynh hướng tích tụ quyền lực và tản quyền,
giữa sự khai sinh nhà nước với tình trạng Mandala sẽ lần lượt được giải quyết
bằng ba công cụ lịch sử: tôn giáo; định đô; và tinh thần dân tộc.
Ba
công cụ này sẽ từng bức triệt tiêu xã hội
phân đoạn, biến tình trạng tản quyền thành
Nhà nước (phân đoạn?) trong trường
hợp Đại Việt dưới thời Lý.
2. Giữa tản quyền và tập quyền
Lê Long
Đĩnh: sự thất bại của trật tự bạo lực
Đầu
thế kỷ XI, triều Lý lên thay Tiền Lê. Chỉ một thời gian ngắn sau đó nhà Lý đã
“rời đô” về thành Đại La, đổi tên thành Thăng Long, sau này trở thành biểu
tượng chính trị của Đại Việt. Trong khoảng một năm (1009- 1010), quyết định của
Lý Công Uẩn có phải là quá táo bạo? Và sự thay thế ảnh hưởng của nhà Tiền Lê
dường như quá đơn giản? Đi sâu vào phân tích những thất bại chính trị của nhà
Tiền Lê ở ông vua cuối cùng của nó: Lê Ngọa Triều, Lê Long Đĩnh sẽ vén lộ một
bức tranh quyền lực Mandala thú vị. Dĩ nhiên, người ta đều biết rằng thất bại
chính trị của một triều đại đến từ sự không ăn khớp giữa Nhà nước với tư cách
hệ điều tiết xã hội và quần chúng với ý nghĩa toàn bộ sức sản xuất xã hội. Một
lần nữa, cạm bẫy tư duy đặt ra ngay ở đây: nếu ta xem xét mối quan hệ đó, ta vô
tình đặt một giả định ngầm, rằng giữa Nhà nước và xã hội đã có một quan hệ rộng
lớn và khăng khít mà mỗi ảnh hưởng từ triều đình đều gây ra chấn động ở xã hội
– nói cách khác, ta thừa nhận ở đây hiệu
ứng dây chuyền của chính quyền với xã hội và do đó thừa nhận ảnh hưởng rất
mạnh của Nhà nước hay quyền lực to lớn của nó hoặc mức độ thống nhất của xã
hội.
Nhưng,
áp dụng giả định ngầm đó cho thời Đinh-Tiền Lê thực tế là một giả định không
chặt chẽ. Cho đến thời Lý, tập quyền mới là một khuynh hướng mạnh, chưa phải là
tình trạng thông thường của thượng tầng xã hội. Trái lại, tình trạng bấy giờ
vẫn đang là tản quyền cát cứ, mỗi vùng lại có một người đứng đầu và chi phối
ảnh hưởng riêng. Bên cạnh việc phải đối mặt với Trung Quốc thì chính tình trạng
cát cứ đó cũng là nguyên nhân khiến thời Đinh Lê duy trì hình thái Nhà nước
quân sự. Kinh đô Hoa Lư của hai triều đại này vì thế cũng là một trung tâm quân
sự có tính phòng thủ cao hơn là tính sản xuất hoặc thương mại.
Do đó,
chúng tôi cho rằng phải nhận thức sự dịch chuyển triều đại này theo một giả
định ngầm khác: phải giả định rằng lúc này những ảnh hưởng trực tiếp của các
chính sách, luật pháp… thuộc về giới hạn quyền lực của Nhà nước là nhỏ và đóng
vai trò không cao trong việc điều chỉnh xã hội về mặt thực tế (còn về danh
nghĩa thì có thể lớn), do đó mà biến
động chính trị không làm rung động xã hội một cách rộng lớn (thậm chí, Lý Công
Uẩn về sau còn thừa hưởng nhiều thành quả từ thời Ngoạ Triều). Với giả định như
thế, chúng tôi xét đến trường hợp nhà Tiền Lê chấm dứt do thất bại của Long
Đĩnh với ý nghĩa sau: chính việc không tạo được chỗ dựa chính trị vững chắc cho
Hoàng tộc về mọi mặt và do nhiều nguyên nhân, mà Long Đĩnh không tạo được cơ sở
cho bản thân dòng họ ông ta và chính sự nghiệp của mình. Cơ sở chính trị của
một triều đại bao giờ cũng chính là những trí thức có vai trò kết nối giữa
chính quyền và xã hội. Trong điều kiện lịch sử của nhà Tiền Lê nói chung và
Long Đĩnh nói riêng, trí thức lại càng có vai trò quan trọng trong ảnh hưởng
chính trị ở vùng nông thôn khi mà bộ máy hành chính chưa phát triển.
Trong
ý nghĩa một thảo luận đơn giản, chúng tôi muốn tập trung vào sự đối xử của Long
Đĩnh với trí thức Phật Giáo, chính là động lực khiến các trí thức Phật Giáo
tiến hành cuộc lật đổ triều đại này. Điều này mặt khác còn có ý nghĩa trong mưu
đồ thay thế triều đại của tăng lữ.
Lê Long Đĩnh và bản tính tàn bạo được sử sách
miêu tả
Hầu
hết các cuốn sử đều nhắc tới bản tính tàn bạo của Long Đĩnh. Sự miêu tả đó còn
thành công tới mức đa phần người ta quên đi những chiến công hoặc thành tích
lịch sử của ông mà chỉ nhớ tới bản tính đó.
Theo
sử sách, Lê Long Đĩnh là con trai thứ 5 của Lê Đại Hành, mẹ là Chi Hậu Diệu Nữ.
Sau khi vua Lê Đại Hành mất, bốn hoàng tử tranh giành ngôi trong tám tháng. Năm
1006, anh cùng mẹ của ông là Lê Long Việt giành được ngôi vua. Đến khi Long
Việt lên ngôi làm vua là Lê Trung Tông, được 3 ngày thì Lê Long Đĩnh sai kẻ
trộm trèo tường vào trong cung, giết chết, rồi cướp ngôi, tự lập làm vua.
Những
dữ liệu này cho thấy những hình thức trao truyền quyền lực gần như chưa được cố
định - chưa có một thể chế trao quyền rõ ràng, hợp thức[5].
Dù là hậu duệ của một anh hùng chiến
tranh, nhưng cũng như Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập, anh em Lê Long Việt
và Lê long Đĩnh cũng đối mặt với một ngai
vàng hiểm nguy trước các thế lực quân sự - cát cứ trong hoàn cảnh chính họ
không được bao phủ bởi hào quang thần
thánh. Ta sẽ còn thấy rằng, nỗ lực hiện
đại hóa quyền lực theo trào lưu đương thời bên nhà Tống của Lê Long Đĩnh sẽ
đặt một nền tảng dứt khoát cho chế độ tập truyền sau đó của nhà Lý. Nhưng đến
Lê Long Đĩnh, dấu ấn của trật tự tự phát Mandala trong vai trò trung tâm của
người đứng đầu vẫn còn hiển hiện một cách tự nhiên như vậy: ông giết anh mà
không có một thế lực nào đăng đàn chống đối. Những cuộc đàn áp các thế lực
huynh đệ ở địa phương của Long Đĩnh nhằm dẹp bỏ nguy cơ cũng vậy. Sự nhập nhằng
giữa tính huyết tộc và tính cá nhân đã giăng sẵn cái bẫy chính
trị cho Long Đĩnh – nó chính là một nguồn đảm bảo cho cái chết của ông vào Đông
1009. Thoát thai như một sản phẩm tiêu biểu của lược đồ tinh thần Mandala, nhưng Lê Long Đĩnh chỉ có thể cố gắng
kiến tạo một trật tự quyền lực mới bằng cách từng bước mô phỏng chính quyền
Trung Hoa với những cải cách thể chế thuần túy, chứ không làm sao thiết lập nên
các bệ đỡ xã hội cho những cải cách của mình.
Những
biện pháp phô trương quyền lực của Long Đĩnh lại thể hiện phẩm chất thủ lĩnh bộ lạc, chú trọng đến những
hình phạt trực tiếp và bất quy tắc hơn là một thể chế hình phạt phân xử thành
văn. Đại Việt sử lược (trang 33,
quyển 1, bản điện tử) viết:
“...Nhà vua cười rộ lên lấy làm thích thú. Phàm
đánh trận, bắt được quân địch vua cho áp giải đến bờ sông. Lúc nước thủy triều
rút xuống thì sai làm cái chuồng dưới nước, rồi đuổi tù binh vào trong chuồng. Khi nước thủy triều dâng lên, tù
binh ngộp hơi thì hả miệng ra rồi uống nước mà chết. Lại bắt (tù nhân) treo lên
cây cao rồi sai người ở dưới chặt cây. Có khi vua đi chơi ở sông Chi Ninh, sông
có nhiều thuồng luồng, bèn trói người ở
một bên ghe, rồi cho ghe qua lại ở giữa dòng nước, khiến cho thuồng luồng
nó sát hại đi. Còn phàm những con vật (nuôi để cúng tế) đem cung cấp cho nhà
bếp, trước tiên phải sai người khiêng vào để tự tay vua đâm chết đã, rồi sau mới giao cho người nấu bếp…”(in
đậm do tôi nhấn mạnh)
Lại
chép:
“…Vua
tính hiếu sát, phàm người bị hành
hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt, để cho lửa cháy gần chết,
hoặc sai kép hát người Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn dao cùn xẻo từng mảnh, để cho không được chết chóng. Người ấy đau đớn
kêu gào thì Thủ Tâm nói đùa rằng: "Nó không quen chịu chết"…”(in đậm do
tôi nhấn mạnh)
Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói:
“Vua Kiệt nhà Hạ thích giết người, đến nỗi có
hình phạt leo cột đồng nung nóng10, vua Trụ nhà Thương thích giết người đến nỗi
có việc chặt đùi người lội nước buổi sáng11, tuy có Long Bàng12, Tỷ Can13 là
người hiền hết lòng trung [31a]có sức can ngăn mà đều bị giết, vì thế mất nước
một cách đột nhiên. Đời sau những vua thích giết người như Tôn Hạo1 nước Ngô
cũng nhiều, cuối cùng đều diệt vong cả. Ngọa Triều không những chỉ thích giết
người, lại còn oán vua cha không lập
mình làm thái tử, đánh đau người Man, cho họ kêu gào, nhiều lần phạm húy cha mà lấy làm thích, thật quá tệ. Mất nước mau
chóng, há phải không do đâu mà ra?”[6]
(in
đậm do tôi nhấn mạnh)
Dĩ
nhiên, những lời nhận xét của Ngô Sĩ Liên và Lê Văn Hưu đều xuất phát từ chỗ vị
trí của một sử gia Nho Giáo lấy đạo quân thần phụ tử làm chuẩn mực, lời lẽ quả
nhiên có phần rất nặng nề. Nhưng những thói quen đối xử của ông quả nhiên rất
đậm tính cách tàn bạo. Tuy vậy, GS Trần Ngọc Vương trong khi nghiên cứu văn bản
có nhận xét: vào thời Đinh – Lê, tục ăn thịt người hình như vẫn còn, nghĩa là
ngay trong triều đình thô sơ đó những tập tục có tính bộ lạc còn đậm nét. Từ
đây, ta có thể thấy rằng bản thân Long Đĩnh cũng chỉ là biểu hiện của một thời
đại chuyển giao: từ những hình thái liên minh thủ lĩnh tiến lên triều đình
phong kiến chuyên chế, và như thế, từ một thủ lĩnh tàn bạo lại là một quân
vương hiển hách.
Đối xử với Phật Giáo
Trước
Long Đĩnh, thậm chí từ trước Đinh Bộ Lĩnh, thế lực ngoài chính quyền, Phật
giáo, đã có được một vị thế thậm chí vượt chính quyền trong lược đồ Mandala. Sự
ảnh hưởng của truyền thống tăng lữ bấy giờ còn dựa vào thần thánh cố định là
chủ yếu nên chưa xuất hiện các thủ lĩnh tôn giáo nổi trội có vai trò kết tụ lực
lượng xã hội. Do đó, Phật giáo vẫn còn đứng ngoài sự xác lập lược đồ Mandala
bấy giờ: họ không trở thành tâm điểm của Mandala cũng như không gắn hoạt động
tôn giáo của mình với các thủ lĩnh bộ lạc. Nhưng từ Đinh trở đi, dấu hiệu của
Mật Tông đã trở nên rõ ràng: các cột đá khắc kinh Mật Tông được coi như một
biểu hiện luật lệ[7]. Không
hề ngẫu nhiên, nhân tố ngoài Mandala này đã tiến tới từng bước cộng tác với thế
lực quân sự Đinh – Lê để nâng cao ảnh hưởng của mình.
Ta
cũng thấy rằng từ Tiền Lê trở đi, sau cuộc kháng chiến chống Tống rồi phá hủy
vương triều Idrapura (982), Lê Hoàn đồng thời cũng tiến hành các cuộc thanh
trừng đẫm máu (ở Hoan - Ái, 989 chẳng hạn) làm suy kiệt từng bước năng lực phản kháng ở địa
phương. Như thế liên minh quyền lực
Mandala đã suy yếu trong nền tảng căn bản của nó ở Đại Việt bằng sự thất
thế dần dần các thủ lĩnh địa phương. Liên minh này, do chỗ mang đậm tính quân
sự, đã tạo ra một tình trạng thể chế vắng bóng các chức phận hành chính, tạo
thêm điều kiện cho các trí thức Phật giáo nhanh chóng tìm được phương tiện nối
kết với chính quyền. Như thế, Phật giáo với ý nghĩa một lực lượng xã hội và nỗ
lực của Lê Hoàn làm suy yếu tình trạng tự trị địa phương là hai nguồn lực có
khuynh hướng làm tan rã lược đồ Mandala ở Đại Cồ Việt[8].
Nhưng
những mầm mống chống
Đại
Việt Sử Lược (đã dẫn ở trên), có chép:
Lại khi, nhà vua đặt mía trên đầu bậc tu hành
là đức tăng Thống Quách Mão mà róc, rồi giả vờ sút tay dao phập vào đầu Quách
Mão chảy máu ra, vua cười rầm lên[9].
Đây là
một trong những bằng chứng “kinh điển” chỉ trích thái độ khinh thường Phật Giáo
của Long Đĩnh. Tuy vậy, ông Hồ Đắc Duy lại cho rằng Long Đĩnh có công với Phật
Giáo:
“Trong một lần trao đổi về lịch sử Phật giáo,
một vị thiền sư nhắc chúng tôi, rằng Lê Long Đĩnh là ông vua đầu tiên cử người
đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo, rằng sư Vạn Hạnh, thiền sư Khuông Việt Ngô
Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được Lê Long Đĩnh rất trọng
vọng... Nghe quá lạ so với những gì mà mình được học, tôi lần giở những trang
sử có liên quan đến Lê Long Đĩnh. Trong Việt Nam Phật giáo sử lược (in lần đầu
năm 1943), thiền sư Thích Mật Thể viết: "Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14
(1008), sau khi nước ta đã hòa với Tống rồi, vua Đại Hành sắc ông Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã sang sứ nước
Trung Hoa, cống hiến đồ thô sản và xin vua Tống ban cho bộ "Cửu kinh"
và "Đại Tạng kinh". Vua Tống trao cho những bộ ấy và cho sứ giả đưa
về. Đó là lần đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa vậy".
Do nhầm lẫn hoặc cũng có thể do ghét Lê Long Đĩnh, thiền sư Thích Mật Thể đã viết đoạn này không đúng, vì Lê Đại
Hành mất năm 1005. Lê Long Đĩnh làm vua từ năm 1006 và đến năm 1008 vẫn giữ
niên hiệu Ứng Thiên của vua cha. Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau:
"Đinh Mùi/Ứng Thiên/năm thứ 14 [1007], (Vua vẫn dùng niên hiệu Ứng Thiên;
Tống Cảnh Đức năm thứ 4). Mùa xuân, (vua Lê Long Đĩnh) sai em là Minh Xưởng và
Chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại
Tạng". Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép: "Đinh Mùi,
năm thứ 14 (1007)... Nhà vua (Lê Long Đĩnh) sai Minh Xưởng và chưởng thư ký là
Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và
kinh sách Đại Tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả". Như vậy "lần đầu tiên nước ta cho người sang cầu
kinh bên Trung Hoa" chính là do
vua Lê Long Đĩnh."Cửu kinh" gồm Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư,
Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ là 9 bộ sách vĩ
đại nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên "nhập" vào nước ta
là do Lê Long Đĩnh lấy về. Còn kinh Đại Tạng là gì ? Đó là Đại Tạng Kinh chữ
Hán - bảo vật vô giá của Phật giáo và của văn hóa thế giới. Bộ sách đó, theo
lịch sử Phật giáo, là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng
Trung Hoa vượt qua biết bao gian truân khổ ải dày công thu thập, sưu tầm và
dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 (đời Tống
Thái Tổ) mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển (riêng việc khắc bản
phải mất 12 năm). Bộ sách đó không chỉ là tổng vựng các kinh sách Phật giáo mà
còn hàm chứa rất nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học, nghệ thuật, thiên
văn, toán học, y dược... Một ông vua lần
đầu tiên biết đem những di sản vĩ đại như vậy về nước để xây dựng, phát triển
nền văn hóa dân tộc, liệu có thể gọi là hôn quân? Và một ông vua đã trực tiếp
sai em mình đi xin kinh sách về cho Phật giáo, ông vua đó có thể nào "lấy
mía để trên đầu nhà sư mà róc" ?.
(Nguồn:http://vinhanonline.com/index.php?view=article&catid=54%3Anhan-vat-su-kien&id=743%3Athu-bao-chua-cho-le-long-dinh&tmpl=component&print=1&page=&option=com_content&Itemid=172)
Ở đây,
đặt kết luận rằng mỗi một sự kiện chính trị như thế là do nhà vua và vì nhà vua
quyết định vẫn là dựa trên giả định rằng quyền lực của nhà vua và quyết định
của nhà vua tác động bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của đời sống chính trị - văn
hóa. Mặt khác, chính giả định như thế đã giả định một sự việc là: nhà vua quan
tâm đến Phật Giáo. Trong một lập luận dựa vào một sự kiện đã bao hàm kết luận
của sự kiện ấy thì bản thân lập luận đó đã không chặt chẽ; hơn nữa, nó bỏ sót
một giả định khác: rằng những quyết định liên quan đến Phật Giáo như thế thực
chất cũng là một biện pháp hay một đáp ứng chính trị của nhà vua chứ không nhất
thiết là một sự quan tâm đặc biệt của
ông ta. Hơn nữa, ông Hồ Đắc Duy cũng không có bằng chứng nào khác chứng minh sự
coi trọng tầng lớp tăng lữ.
Chúng
ta lại có thể thấy rằng giới tăng lữ muốn thay đổi triều đại, và sự thay đổi đó
không nhằm trực tiếp vào sự nắm lấy chính quyền hay can thiệp vào nền hành
chính (có thể do lúc đó bản thân bộ máy hành chính cũng không thực sự có thực
quyền), mà nhằm vào sự gia tăng ảnh hưởng của mình trong xã hội, hay được tạo
điều kiện để phát dương quang đại (chính là lý do mà dù không được Lý Công Uẩn
phong chức cao trong triều đình nhưng giới tăng lữ vẫn hết lòng trợ giúp ông).
Mặt
khác, Long Đĩnh đứng trước một vận hội mới: xu hướng tập quyền chuyên chế, xu
hướng mới của lịch sử. Muốn mở rộng ảnh hưởng của mình, Long Đĩnh buộc phải: 1,
mở rộng thu nhập của Nhà nước, nghĩa là tăng thuế - nghĩa là phải loại bỏ được
thành phần trốn thuế (trốn vào chùa) và đánh thuế vào toàn bộ nông thôn; 2,
loại bỏ ảnh hưởng của Phật Giáo, thay bằng quyền lực hành chính. Trong một cái
nhìn đối diện, tăng lữ lại chán ghét điều đó[10].
Việc nhà vua quá chuyên quyền với bản tính tàn bạo làm họ mất đi uy thế và ảnh
hưởng của mình, vốn là cơ sở của sự mở rộng Phật Giáo. Mặt khác chính ảnh hưởng
đó cho phép Phật Giáo tồn tại và không ngừng mở rộng. Như một phản ứng tự
nhiên, các trí thức hàng đầu của Phật Giáo tìm cách lựa chọn một vị vua có thể
hậu thuẫn cho mình. Vị vua tương lai ấy chính là một người xuất thân trong Nhà
chùa – và, như Lê Hoàn, nắm binh lực trong tay.
Âm mưu của tăng lữ
Từ
thời Bắc thuộc, Đinh, Lê, Phật Giáo đã có vị trí độc tôn trong đời sống tinh
thần (dĩ nhiên nó vẫn tồn tại cùng với các tín ngưỡng địa phương, nhưng hệ
thống tăng lữ cùng việc dung hoà với ma thuật dân gian giúp Phật Giáo có vị trí
đó). Vấn để của tăng lữ là mở rộng ảnh hưởng của Phật Giáo, nói cách khác, phát
triển Phật Giáo. Trước nhu cầu đó, Phật Giáo cần dựa vào Nhà nước, dựa vào bộ
phận thượng tầng xã hội (trong một thời gian dài, Phật Giáo vẫn chủ yếu là Phật
Giáo của tri thức, những người gắn với chính trị sâu sắc hơn với đời sống, hơn
nữa muốn mở rộng cơ sở vật chất của Phật Giáo cần nguồn vật lực lớn).
Nhân
dân vốn không có tư tưởng riêng: chính lực lượng trí thức dân tộc đem hệ tư
tưởng vào xã hội. Lê Long Đĩnh đề cao sức mạnh quân sự đối xử hỗn xược với tăng
lữ (với Phật Giáo!), nhưng ông không thể dựa vào bộ phận trí thức nào khác nhằm
thiết lập đối trọng với trí thức Phật Giáo (bài học lịch sử mà không một chính
trị gia nào được quên là thái độ ứng xử với giới tri thức; trí thức bị bạc đãi
thì đất nước làm sao có thể ổn định, bền vững được). Bằng cách đó, Long Đĩnh không lường hết được hậu
quả khi giới tăng lữ tìm cách thay thế người đứng đầu, nhằm kiếm tìm sự ủng hộ
cho Phật Giáo(một số nhà nghiên cứu cho rằng Phật Giáo phát triển độc tôn là
nguyên nhân chính Phật Giáo không chấp nhận nổi bị triều đình bạc đãi!).
Câu
chuyện bà Phạm Thị giao hợp với thần linh ở chùa Tiên Sơn, sinh ra Lý Công
Uẩn(974); rồi chuyện cây cổ thụ ở quê Lý bị sét đánh, in lên bài thơ báo việc
nhà Lý thay nhà Lê; chuyện con chó trắng đốm đen ở chùa Ứng Thiên… Tất cả có lẽ
đều do giới tăng lữ bày ra nhằm lung lạc quần chúng(dẫu thế nào quần chúng cũng
đã bị lung lạc). Poliacop phát hiện rằng ngày sinh của Lý Công Uẩn được ghi rõ
trong sử sách – một trường hợp bất thường của lịch sử. Chúng ta càng có lý do
ngờ rằng “lý lịch” của họ Lý là kiệt tác của các nhà sư. Hơn nữa Lý Công Uẩn
vốn xuất thân từ nhà chùa, được Phật Giáo nuôi dưỡng, hoàn toàn đầy đủ khả năng
đáp ứng kì vọng của tăng lữ.
Nhân
dân ngả theo những lời sấm chỉ là hiện tượng bề ngoài- thực chất, động lực bên
trong vẫn không gì ngoài mong muốn được sống hòa bình ổn định(Nhà nước lấy sự
ổn định của xã hội làm thước đo bền vững, nếu người dân oán than, bất bình với
nhà nước, thì điềm loạn của quốc gia không xa chút nào!). Dù vậy, Lý Công Uẩn
với tương lai được dấu sau mọi huyền tích khiến quan lại phải lựa chọn. Rốt
cuộc, họ đã chọn sự an toàn cho mình- ủng hộ Lý thân vệ. Lý Công Uẩn được sự
ủng hộ của quan lại, tăng lữ, nông dân đã được “dìu lên chính điện, lập làm
thiên tử, lên ngôi hoàng đế. Trăm quan đều hô vạn tuế.”
Lê
Long Đĩnh không hẳn là vị vua bất tài, song triều đại của ông chưa thể thực
hiện được nhu cầu thống nhất của lịch sử. Sự ngược đãi Phật Giáo có vẻ không
phải ý định thông minh đối với chính trị, xã hội. Ông chắc đã có ý định loại bỏ
ảnh hưởng chi phối nặng nề của Phật Giáo, nhưng chính điểm này biến thành điểm
chết của nhà Lê: một mặt mọi hành động như vậy gây ra bất bình của giới tăng lữ
(thế lực chi phối đời sống tinh thần và chính trị), mặt khác, ông không thể dựa
vào thế lực nào ngoài Phật Giáo để thống nhất Đại Việt một cách bền vững (dùng
sức mạnh áp đặt thật sự không thông minh chút nào!). Nếu thời Lý còn phải chấp
nhận sự tồn tại của thủ lĩnh các vùng, thì chắc thời Lê không khá hơn: bất ổn
chính trị - xã hội tăng cường so chia cắt.
[1] Và như thế, câu hỏi
rằng Đông Nam Á có phải là một đối tượng nghiên cứu khoa học hay không đã được
trả lời. Có thể trích dẫn ý kiến của Colin Mackerras: “Trung Quốc có lẽ đã là một Nhà nước đơn lẻ, nhưng hẳn đã mang lại sự
phong phú của Đông Nam Á, các nhà sử học đã tranh cãi liệu vùng này (Đông Nam Á
– ND) có nên được xem như một đơn vị nghiên cứu hay không. Thực thế, suốt một
thời gian dài, Đông Nam Á chỉ được xem như được định hình bởi những ảnh hưởng
ngoại lai… Những nghiên cứu từ sau Thế chiến II, và đặc biệt từ sự độc lập của
những quốc gia này, đã cho thấy đây là một khu vực bản sắc tự trị và giờ đây
ngày càng gia tăng cái ấn tượng về những đặc trưng văn hóa như một tổng thể đối
với mỗi bộ phận của nó”. (Dẫn theo R.J. Ferguson, Complexity in the Center: the New SouthEast Asian Mandala, trích
trong Culture Mandala: The Bulletin of the Center for East – West Cultural and Economic Study,
Volume 1, Issue 1, Article 2, Berkely Electronic Express, http://epublications.bond.edu.au/cm.
[2]O.W Wolters,. History,
Culture and Region in Southeast Asian Perspectives. Institute of Southeast
Asian Studies, Revised Edition, 1999, p.27
[3] R.J. Ferguson, Complexity in the Center: the New SouthEast
Asian Mandala, nguồn đã dẫn.
[4] M. Somers Heudhues, Lịch sử phát triển Đông Nam Á, NXB VHTT
2007, tr 23-24
[5] Vì thế, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Văn Hưu
nói: “Ngọa Triều giết anh, tự lập làm
vua; bạo ngược với dân chúng để thỏa lòng hung ác, đến nỗi mất nước mất ngôi,
không phải là sự bất hạnh của nhà Lê,
lỗi ở Đại Hành không sớm đặt Thái tử và do Trung Tông không biết phòng giữ
từ khi mời chớm nên đến nỗi thế.” (in đậm do tôi nhấn mạnh).
(Nguồn:http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1ntn4ntn31n343tq83a3q3m3237nvn)
[6] Bản điện tử, Nguồn: http://www.vietnammonpaysnatal.fr/net/dvsl.pdf
[7] Riêng các cột đá
khắc kinh này là biểu hiện của cùng lúc ba dòng chảychi phối đời sống tinh thần
bấy giờ: (i) các tín ngưỡng bản địa – địa phương: thờ đá; (ii) ma thuật dân
gian kết hợp với hình thù tôn giáo và ma thuật ngoại lai của Mật Tông; (iii) tinh
thần chung về tôn giáo đang ngày càng hình thành.
[8] Mặc dù vậy, chính
Phật giáo cũng phải được xem như một nhân tố duy trì Mandala khi nếu chỉ nhìn
nó như một sự tạo nền tinh thần cho toàn bộ lược đồ tinh thần Mandala. Nhưng, ở
Đại Việt, Phật giáo lúc đó (trước Lý) chưa có được sự ảnh hưởng sâu rộng tới
toàn thể các cộng đồng đến mức đó, cũng không phân tán tới mức tạo nên nền tảng
tinh thần chung theo lối tự trị. Tạ Chí
Đại Trường dã ghi nhận sự hòa trộn dấu ấn bản địa với chính quyền để trở thành
chính thống trong mối quan hệ mờ nhạt với Phật giáo: “…khi các triều đại độc lập ban đầu bị ý thức phân li thúc đẩy tách khỏi
chính quyền Tràng An, thu nhập các yếu tố bản xứt khuất lấp đưa lên địa vị lãnh
đạo thì chúng cũng gia nhập vào phong trào chung để làm thành phần củng cố chế
độ và đem lại sắc thái riêng cho thời đại. Trong hệ thống tôn giáo cao cấp đã
trải qua những giai đoạn biến đổi lâu dài như Phật giáo, ta thật khó phân biệt
các yếu tố tác động đến sự biến thái ấy”
[9] Các nhà sư làm sử
Phật Giáo ghi lại rằng Long Đĩnh đặt tên cho Quách Mão là Quách Ngang: “Long Đĩnh còn thích chọc tiết bò, lợn, có
lần sai lính bắt nhà sư Quách Ngang (vì
ông dấy loạn chống lại triều đình) đến chầu, hạ lệnh ngồi xuống, rồi tự tay
lấy mía róc lên đầu nhà sư, song chốc lát lại giả vờ lỡ tay bổ dao. làm cho máu
chảy xối xả để mình cười một cách khoái trá!” (Thích Đức Nhuận, Lược sử Phật Giáo Việt Nam, http://tuvien.com/lich_su/show.php?get=1&id=01suviet5#tacgia/index)
[10] Thích Mật Thể có
đánh giá Long Đĩnh như “ông vua bạc nhược
và khôi hài”, “Với một ông vua đồi
bại như thế, dù có những ngài Tăng Thống dự vào triều chính cũng vị tất đã dám
đem những chuyện Phật giáo để cho vua được dịp làm trò.”. (Thích Mật Thể,
Việt Nam Phật Giáo sử lược, www.thuvienhoasen.org/vietnamphatgiaosuluoc2-03.htm
- 33k). Hòa thượng Thích Đức Nhuận đánh giá thêm: “Đấy là chỉ mới kể có yếu tố nhân sự có tính cách tranh chấp nội bộ cũng
như dùng hình luật để TRẤN ÁP. làm cho dân khiếp sợ!”. (http://tuvien.com/lich_su/show.php?get=1&id=01suviet5#tacgia/index)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!