Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2014

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)



PGS,TS. Hồ Khang
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam kéo dài 9 năm kể từ tháng 9/1945 đến tháng 7/1954. Căn cứ vào diễn biến thực tế của cuộc chiến cũng như sự điều chỉnh trong chỉ đạo và điều hành chiến tranh của cơ quan chiến lược Việt Nam và Pháp, có thể phân cuộc kháng chiến này thành ba giai đoạn, trong đó, mỗi giai đoạn phản ánh bước phát triển mới của cuộc kháng chiến. Tương ứng với những bước phát triển này, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng cũng có sự bổ sung, hoàn chỉnh dần từng bước. Đường lối đó là sự kế tục và phát triển đường lối quân sự chỉ đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trước, trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Nói cách khác, đường lối chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là đường lối tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng chiến tranh cách mạng nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng trong những điều kiện mới, khi thực dân Pháp và can thiệp Mỹ quay lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Mục tiêu chính trị đó là: độc lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Thực ra, khi đề cập tới quá trình phát triển đường lối chiến tranh nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp, một mặt, phải ngược dòng lịch sử để xem xét sự hình thành cũng như những nội dung cơ bản của đường lối chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang của Đảng CSVN kể từ khi Đảng ra đời, đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến tháng 8/1945; mặt khác, cần trở lại với những văn kiện Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân Tân Trào (tháng 8/1945), Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25/11/1945), chỉ thị Hoà để tiến (3/3/1946), Hội nghị toàn quốc của Đảng (19/10/1946), chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5/11/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), chỉ thị Toàn dân kháng chiến (22/12/1946) toát lên từ những văn kiện quan trọng này, có thể thấy rằng, đường lối kháng chiến đã được đề cập và từng bước hoàn chỉnh mà nội dung cơ bản, như đã nói ở phần trên, là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó được kiểm nghiệm, phát triển qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến. Nội dung phát triển của đường lối chiến tranh nhân dân thực chất là những nội dung của việc chỉ đạo tiến hành chiến nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Những nội dung đó được thể hiện rõ trên các vấn đề cơ bản sau:
a. Quan điểm chiến tranh nhân dân
Trước tháng 8/1945, quan điểm về chiến tranh nhân dân của Đảng mới chỉ thể hiện rõ nét ở nội dung khởi nghĩa toàn dân. Bởi trong thời kỳ lịch sử đó, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam là phải đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng ra xác định rõ: con đường  cách mạng bạo lực và đó là sự nghiệp cảu toàn dân. Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng CSĐD chỉ ra rằng: Điều cốt yếu trong công tác hàng ngày là phải thâu phục quảng đại quần chúng để làm cho cuộc bạo động tương lai được thắng lợi. Thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám, trong khi xác định cụ thể con đường đấu tranh để giành chính quyền là đẩy mạnh đấu tranh chính trị rộng khắp kết hợp vói đấu tranh vũ trang từ thấp đến cao, thực chất khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở những nơi có điều kiện, tiến lên phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Khi thời cơ đến, Đảng ra đồng thời chỉ rõ: “ Khởi nghĩa là công việc của toàn dân”, “phải làm cho chiến tranh du kích sinh sôi và nảy nở thành cuộc khởi nghĩa của nhân dân toàn xứ”… Quan điểm khởi nghĩa toàn dân của Đảng được thể hiện tập trung nhất trong việc chỉ đạo cuộc Cách mạng Thán Tám từ việc xác định đường lối xây dựng lực lượng chính trì và lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng căn cứ địa cách mạng đến tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang. Ngay trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (12/1944), Hồ Chí Minh  cũng khẳng định: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lương để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện”.
Trong kháng chiến chống Pháp, quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng LĐVN đã phát triển khá hoàn chỉnh với một nội dung chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống “cả nước đánh giặc” của tổ tiên, quan điểm khởi nghĩa toàn dân của Đảng thời kỳ trước và trong cách mạng Tháng Tám. Trong Tuyên ngôn độc lập, hai lần Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”, “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[1]. Hơn một năm sau, trước sự lấn tới của thực dân Pháp “vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng CSĐD được thể hiện rất rõ ràng:
“Hỡi đồng bào!
“Chúng ta phải đứng lên!
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Theo quan điểm này, ngay từ đầu và trong suốt quá trình tiến hành kháng chiến Đảng CSĐD (sau là Đảng LĐVN) đã động viên toàn dân tổ chức toàn dân, phát huy sức mạnh, sự sáng tạo của nhân dân tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng.
Động viên toàn dân, tổ chức toàn dân, phát huy trí tuệ và sức mạnh toàn dân, Đảng và Chính phủ kháng chiến đã đề ra và tổ chức thực hiện một loạt biện pháp mang ý nghĩa chiến lược như giáo dục chính trị cho nhân dân, thành lập Mặt trận đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ dân tộc và từng bước kết hợp với nhiệm vụ dân chủ, vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng lực lượng ba thứ quân là nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc. Nhờ đó, “lúc bắt đầu kháng chiến, quân đội ta là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt. Quân đội Pháp là một quân đội nổi tiếng trên thế giới, có hải. lục quân, không quân, lại có đế quốc Anh, Mỹ giúp, nhất là Mỹ. Lực lượng kháng chiến và đối phương chênh lệch nhiều như thế, cho nên lúc đó có quan điểm cho rằng: cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là “châu chấu đá voi”. Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của đối phương, lúc đó quân đội Việt Nam phải dùng gậy tầm vông. Nhưng tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân, của tinh thần yêu nước, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã nhìn vào tương lai, tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc.
Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng CSĐD (1951), Hồ Chí Minh nhận định:
“Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”
b. Xây dựng lực lượng của chiến tranh nhân dân
Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân, những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng, Nhà nước đã ra sức xây dựng một lực lượng hết sức rộng rãi, vững chắc để tiến hành chiến tranh. Lực lượng đó bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó, lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo quan điểm của Đảng, lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng của toàn dân tham gia khởi nghĩa và chiến tranh một cách có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong.
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, Đảng CSĐD đã động viên toàn thể  nhân dân trên mọi miền Tổ quốc, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh. Khi thời cơ khởi nghĩa xuất hiện, vấn đề chính quyền được đặt ra trước mắt thì lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng chủ yếu vùng lên dùng bạo lực cách mạng đập tan chính quyền đối phương, thành lập chính quyền cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng chính trị tiếp tục được củng có và ngày càng mở rộng, bao gồm hàng triệu người có tổ chức trong các đoàn thể của Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) - một hình thức mới của Mặt trận dân tộc thống nhất. “Hội liên hiệp quốc dân không phải là mặt trận dân tộc thống nhất riêng của các đảng phái yêu nước, chẳng hạn Việt Minh. Nó là một khối kết hợp các đảng, các phái, các tầng lớp nhân dân vô đảng, vô phát cùng chung mục đích: vì nước. Đó là Mặt trận thống nhất của toàn dân”. Trong loạt bài Thường thức chính trị ký tên ĐX đăng trên nhiều số báo Cứu quốc, năm1953, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản đều là động lực của cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, bốn giai cấp đoàn kết và tổ chức thành Mặt trận thống nhất to lớn mạnh mẽ. Vì trong cuộc cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến, trong sự nghiệp kiến quốc, phát triển kinh tế, bốn giai cấp ấy đều có lợi, cho nên bốn giai cấp ấy cần phải đoàn kết, cần phải hợp tác, cùng nhau xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc thành công”.
Nhờ có lực lượng chính trị nhân dân rộng lớn, những năm chống thực dân Pháp xâm lược, chính phủ VNDCCH đã:
- Xây dựng, bảo vệ, củng cố được chính quyền cách mạng;
- Khai thác được tiềm lực to lớn của nhân dân và đất nước vào công cuộc kháng chiến kiến quốc;
- Đấu tranh thắng lợi trên mặt trận văn hoá tư tưởng;
- Xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, thực hành và đẩy mạnh chiến tranh nhân dân.
Đi đôi với việc củng cố và tăng cường lực lượng chính trị, Đảng, Nhà nước đã đồng thời giải quyết thành công nhiều vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là lực lượng nhân dân cách mạng, được tổ chức chặt chẽ và vũ trang với mức độ khác nhau, hoàn toàn thoát ly sẩn xuất hoặc không thoát ly sản xuất, tự nguyện chiến đấu cho mục đích chính trị của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trước Cách mạng tháng Tám, nhiều loại hình tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng đã hình thành và phát triển. Từ năm 1941, các đội tự vệ cứu quốc đã xuất hiện. Từ các phần tử tích cực trong các đội tự vệ, trong các đoàn thể cứu quốc, lần lượt tổ chức ra các tiểu đội du kích, tiến lên tổ chức các đội du kích. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Trong thời kỳ tổng khởi nghĩa, lực lượng chính khổng lồ của quần chúng đã cùng các chi đội Giải phóng quân, các đội du kích, các đội tự vệ cùng nhân dân vũ trang, quần chúng vũ trang thành hợp thành đội quân khởi nghĩa hỗ trợ cho lực lượng chính trị giành chính quyền trên cả nước.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong khi bắt tay giải quyết một loạt vấn đề trọng đại và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời đặc biệt quan tâm tới xây dựng củng cố và tăng cường lực lượng vũ trang nhân dân. Những tháng cuối năm 1945, Việt Nam giải phóng quân (sau đó đổi thành Vệ quốc đoàn rồi Quân đội quốc gia và từ 1950 lấy tên là Quân đội nhận dân Việt Nam, đẫ không ngừng tăng lên. Từ khoảng 5.000 người trong Tổng khởi nghĩa, con số đó là 50.000 vào cuối năm 1945, rồi 82.000 cuối năm 1946.
Bên cạnh bộ đội tập trung, khắp các địa phương trong cả nước, lực lượng dân quân, tự vệ phát triển mạnh mẽ. Cả nước có gần một triệu tự về và du kích trực tiếp chiến đấu, bảo vệ Đảng và chính quyền cách mạng ở cơ sở…
Đồng thời với việc tăng cường quân số, các vấn đề về trang bị vũ khí, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng quân đội, đào tạo cán bộ quân sự, huấn luyện chiến đấu, điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang cũng từng bước được Đảng, Nhà nước Việt Nam giải quyết.
Như vậy, đến trước ngày toàn quốc kháng chiến, lực lượng vũ trang nhân dân đã có bước phát triển đáng kể. Lúc này, mô hình tổ chức lực lượng vũ trang gồm quân đội chính quy của Nhà nước và lực lượng vũ trang quần chúng cách mạng.
Bước vào cuộc kháng chiến và trong suốt quá trình này, lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được tăng cường về mọi mặt. Cùng với sự tiến triển của cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang nhân dân, trên thực tế, đã hình thành nhiều bộ phận: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích.
Dân quân du kích, dân quân tự vệ “là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng tan rã”[2]. Để phát triển lực lượng, tháng 2/1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân Việt Nam từ 18 tuổi đến 45 tuổi vào dân quân và quy định nhiệm vụ của dân quân tự vệ  cùng các đội du kích ở địa phương. Thực hiện chủ trương đó, từ mùa hè 1947 trở đi, hàng chục vạn người đã hăng hái gia nhập các đơn vị dân quân, di kích, tự vệ chiến đấu. Đến cuối cuộc kháng chiến, toàn bộ lực lượng này đã lên tới con số hàng triệu, được tổ chức rộng khắp, với các hình thức phong phú linh hoạt, phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện lịch sử từng địa phương. Đó là lực lượng chủ yếu cùng toàn dân đẩy mạnh các hoạt động rộng khắp, hỗ trợ cho và phối hợp với các đơn vị bộ đội tập trung trong mọi hoạt động tác chiến trên chiến trường, trước, trong và sau lưng đối phương...
Để phát triển lực lường này, phát huy hiệu quả to lớn của nó, trong bài Đẩy mạnh phong trào du kích đã đăng trên báo Nhân dân số 33, ngày 22/11/1951, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Đoàn thể cà Chính phủ phải tăng cường sự lãnh đạo phong trào du kích.
“Tư tưởng của cán bộ và nhân dân phải thấu suốt : tin tưởng sâu sắc vào chính sách cảu đoàn thể và Chính phủ. Tin tưởng sau sắc vào lực lượng của nhân dân, vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc.
“Cán bộ phải đi thật sát với dân, phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
“Nhân dân phải nồng nàn yêu nước, và sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc, cho hạnh phúc và tương lai của giống nòi”[3]. 
Từ những đội du kích của các chiến khu, các địa phương; từ những trung đội, đại đội bộ binh; tù những đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, cùng với quá trình phát triển của cuộc chiến tranh nhân dâ, đã hình thành nên Bộ đội địa phương, mà mốc đánh dấu cho sự hình thành đó là Sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương do Hồ Chí Minh ký ngày 7/4/1949. Tiếp đó, ngày 18/8, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Xây dựng bộ đội địa phương, phát triển dân quân, trong đó xác định: hai bộ phận lực lượng này đều có nhiệm vụ bổ sung cho chủ lực, đánh phá lực lượng dự trữ của đối phương, bảo vệ địa phương, bảo vệ lực lượng dự trữ của Việt Nam. Tổ chức bộ đội địa phương dựa trên nguyên tắc: thoát ly khỏi xã và tiến tới chính quy. Tùy tình hình trang bị, đảm bảo hậu cần, trình độ cán bộ và đội viên ở từng nơi để xác định biên chế của đơn vị bộ đội địa phương phù hợp.
Đến cuối năm 1949, từ Liên khu IV trở ra, bộ đội địa phương có hơn 20.000 người. Con số đó, tới năm 1950, lên tời 45.000 và cùng với đà phát triển của kháng chiến, nó tiếp tục có sự phát triển cả về chất lượng, số lượng. Nhờ đó, trong thực tế, lực lượng này thực sự là nòng cốt đấu tranh vũ trang  địa phương, là lực lượng tác chiến tại chỗ, phối hợp với bộ đội chủ lực và dân quân du kích tiến hành những hoạt động tác chiến chống càn, những chiến dịch tiến công và phản công.
Bộ đội chủ lực, từ 85.000 chiến sĩ cuối năm 1946, đến mùa lũ năm 1947 đã lên tới 125.000. Từ đầu năm 1948, với chủ trương phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, một bộ phận bộ đội chủ lực được phân tán thành các đại đội, trung đội độc lập, đi sâu vào vùng tạm chiếm để phát triển phong trào chiến tranh du kích. Đến giữa năm 1949, các đại đội độc lập được lệnh rút về cùng các tiểu đoàn tập trung để xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Toàn quốc, đến năm 1950 đã xây dựng được 12 trung đoàn. Cũng trong thời gian này, một số đại đoàn chủ lực đầu tiên của QĐNDVN ra đời: Đại đoàn 308 (ngày 28/8/1949), Đại đoàn 312 (27/12/1950), Đại đoàn 320 (16/1/1951), Đại đoàn 316 (1/5/1951), Đại đoàn công pháo 351 (27/3/1951), Đai đoàn 325 (5/12/1952).
Bộ đội chủ lực là lực lượng chủ yếu để tiến hành chiến tranh chính quy, là lực lượng cơ động tác chiến trên những địa bàn quan trọng của chiến trường. Việc nhanh chóng phát triển bộ đội chủ lực với quy mô thích hợp trên cơ sở bộ đội địa phương và dân quân du kích hùng hậu, rộng khắp và kiên quyết sử dụng bộ đội chủ lực mở các đợt hoạt động, các chiến dịch lớn là một có gắng quân đội nhân dân Việt Nam. Nó chứng tỏ bước phát triển mới của việc chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng.
Mối quan hệ cơ bản giữa ba thứ quân là quan hệ đoàn kết, hiệp đồng, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau hoàn thành nhiệm vụ. Mối quan hệ đó được củng cố, phát triển trong suốt quá trình xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang.
Bên cạnh ba thứ quân, lực lượng an ninh quốc gia được xây dựng, chấn chỉnh và phát triển có hệ thống từ trung ương tới địa phương. Ngày 21/2/1946, Việt Nam công an vụ được thành lập theo Sắc lệnh 23/SL do Hồ Chí Minh ký. Ngày 18/4/1946, Bộ Nội vụ ban bố Nghị định số 121/NgĐ, quy định cơ cấu, tổ chức, quyền hạn, nhiệm vụ của Việt Nam Công an vụ.
Theo quan điểm của Đảng, sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân bắt nguồn trước hết từ bản chất cách mạng, từ ưu thế chính trị tinh thần của nó. Do vậy, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị được Đảng xem là nền tảng của việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ buổi đầu xây dựng và trong những năm kháng chiến, Đảng đã xác định và vận dụng thành công những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Những nguyên tắc đó là:
- Thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
- Thực hiện công tác chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân.
- Xây dựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, có đủ phẩm chất và năng lực để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó.
- Đề cao kỷ luật nghiên minh, tự giác đi đôi với mở rộng dân chủ nội bộ.
Trên cơ sở tăng cường công tác xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, Đảng đã chỉ đạo giải quyết thành công các vẫn đề về vũ khí, trang bị, cấp dưỡng và các mặt đảm bảo hậu cần khác, biên chế tổ chức, huấn luyện… khiến sức mạnh của lực lượng vũ trang ngày càng được tăng cường.
Tóm lại, những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Đảng LĐVN đã đề ra đường lối và giải quyết thành công vấn đề xây dựng lực lượng của cuộc chiến tranh nhân dân. Dưới sự chỉ đạo của đường lối đó, lực lượng kháng chiến ngày càng lớn mạnh, đặc biệt, lực lượng vũ trang nhân dân đã trưởng thành nhanh chóng, thực sự là nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
c.  Xây dựng căn cứ địa - hậu phương kháng chiến
Để tiến hành chiến tranh nhân dân, không những phải có mục đích chính trị đúng đắn, phải xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân , mà còn phải giải quyết vấn đề xay dựng chỗ đứng chân, vấn đề tiềm lực. Do vậy, ngay từ đầu và suốt những năm kháng chiến, Đảng luôn chăm lo tới việc xây dựng, củng cố, mở rộng, bảo vệ và phát huy sức mạnh căn cứ địa - hậu phương, xem đó là một nhân tố có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 (4/1947) cho rằng: “ Đất nước ta nhỏ hẹp, không thể có căn cứ địa rộng rãi và vững chắc, Những căn cứ địa Việt Nam đều có thể bị địch đánh xuyền mũi hoặc bao vây”. Trong điều kiện đó, căn cứ địa - hậu phương của cuộc kháng chiến phải được xây dựng, bảo vệ theo một đường lối đúng đắn, bằng những biện pháp thích hợp.
Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu vào lúc nhân dân Việt Nam vừa giành chính quyền. Mười sáu tháng kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đến trước ngày toàn quốc kháng chiến là một khoảng thời gian ngắn. Trong khoảng thời gian đó, phát huy mạnh mẽ khí thế cách mạng đang dâng cao của toàn dân tộc, Đảng, Chính phủ Việt Nam vừa lãnh đạo, chỉ đạo quân dân nỗ lực khắc phục những hậu quả nặng nề, nghiêm trọng của chế độ cũ và chiến tranh gây ra; vừa tạm thời hoà hoãn nhằm tranh thủ thêm điều kiện thời gian để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Những ngày tháng ấy, với sức mạnh của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng, Chính phủ Việt Nam, quân dân Việt Nam chẳng những chặn đánh, ghìm chân Pháp ở miền Nam; khắc phục có hiệu quả nạn đói, nạn dốt và nhiều vấn đề nóng bỏng khác trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội mà hơn thế, đã tạo ra và củng cố những nhân tố căn bản của một chế độ xã hội hoàn toàn mới - chế độ dân chủ nhân dân. Đó chính là nền tảng cho việc xây dựng căn cứ địa - hậu phương của chiến tranh nhân dân.
Tháng 12/1946, theo Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Nhưng trước đó, Đảng và Chính phủ đã triển khai kế hoạch tổng di chuyển các cơ quan lãnh đạo và các cơ sở vật chất tối cần thiết cho kháng chiến tới các khu an toàn. Công tác quan trọng này được tiến hành từ cuối năm 1945 ở miền Nam và từ nửa cuối năm 1946 ở miền Bắc. Theo chủ trương của Đảng, nhân dân cả nước đã thực hiện “vườn không nhà trống”, cản bước tiến của đối phương, trực tiếp đánh vào hậu phương chiến tranh. Tuy nhiên, những ngày đầu kháng chiến nổ ra ở miền Nam và ngay sau này toàn quốc kháng chiến, trong thực tế, chưa thể ấn định chính xác đâu là vùng tự do, là hậu phương của cuộc kháng chiến. Cùng với thời gian, gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của cuộc kháng chiến, vấn đề trên đây sớm được giải quyết. Hậu phương chiến tranh nhân dân được xác lập, củng cố, mở rộng. Đó là vùng tự do gồm nhiều tỉnh, nhiều khu vực như 6 tỉnh căn cứ địa Việt Bắc, 3 tỉnh liên khu 4 Thanh - Nghệ - Tĩnh, 3 tỉnh liên khu 5 dọc bờ biển miền Trung. Đó còn là vùng căn cứ Dương Minh Châu, Chiến khu Đ, Chiến khu Đồng Tháp Mười. Ngoài ra, ở những vùng quân Pháp tạm kiểm soát từ Bắc tới Nam, đã hình thành ngày càng nhiều những khu du kích, căn cứ du kích. Với chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 thắng lợi, thoát khỏi thế bao vây. Từ đó, hậu phương kháng chiến được nối thông với các nước xã hội chủ nghĩa, tạo nên thế chiến lược mới cho cách mạng Việt Nam. Cho tới giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, vùng tự do và các vùng căn cứ trên thực tế, đã chiếm hơn 50% số dân cả nước.
Để bảo vệ, mở rộng căn cứ địa - hậu phương trước sự đánh phá quyết liệt của đối phương cũng như để phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, sức mạnh của căn cứ địa - hậu phương vào sự nghiệp kháng chiến, Đảng đã tập trung chỉ đạo xây dựng căn cứ - hậu phương một cách toàn diện cả về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá  - xã hội
Xây dựng hậu phương về chính trị, Đảng, chính phủ Việt Nam luôn chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp và tổ chức quần chúng; ra sức vun đắp khối đoàn kết toàn dân, giáo dục và nâng cao trình độ nhận thức chính trị cho mọi tầng lớp nhân dân, làm thất bại âm mọi âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Nói tóm lại, trên lĩnh vực xây dựng hậu phương vững mạnh về chính chị, quan điểm của Đảng là xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân.
Xây dựng hậu phương về kinh tế, ngay từ đầu và suốt thời gian kháng chiến, Đảng, Nhà nước Việt Nam phát động các phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, ưu tiên đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chú trọng xây dựng và phát triển tiểu thủ công nghiệp, thưong nghiệp  và công nghiệp quốc phòng phù hợp với từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, trong quá trình kháng chiến, Đảng, Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ nhằm khuyến khích kinh tế phát triển.
Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, chủ trương “phát huy phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất” của Đảng và Chính phủ dù đã có một số sai lầm, khuyết điểm, song đã thổi một luồng sinh khí mới, củng cố tinh thần cho một bộ phận quần chúng nhân dân- cả ở vùng tự do và ở cả vùng bị chiếm đóng.
Xây dựng hậu phương về quân sự, Đảng, Nhà nước Việt Nam một mặt chăm lo xây dựng và tăng cường lực lượng chính trị, mặt khác, chủ trương phát động và đẩy mạnh phong trào quân sự hoá toàn dân bằng cách phát triển lực lượng dân quân, tự vệ, du kích; rèn đức và mua sắm vũ khí trang bị cho lực lượng này; xây dựng các làng chiến đấu; xây dựng và phát triển bộ đội địa phương huyện, tỉnh, khu.
Trong công cuộc bảo vệ hậu phương, cộng với lực lượng vũ trang ba thứ quân, các cơ quan chuyên chính như công an, toà án được chăm lo xây dựng đã góp phần quan trọng làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động phá hoại, bảo vệ hậu phương.
Xây dựng hậu phương về văn hoá, xã hội, ngay từ sau cách mạng tháng Tám và suốt những năm chiến tranh, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã động viên toàn dân, tổ chức toàn dân tham gia công cuộc xoá bỏ nền văn hoá ngu dân của chế độ thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hoá, nền giáo dục của chế độ mới theo định hướng: dân tộc, khoa học, đại chúng. Vì thế, nạn dốt bị đẩy lùi, hệ thống giáo dục mới được xây dựng và phát triển khá sâu rộng. Nền văn hoá mới- văn hoá kháng chiến hình thành và ngày càng phát triển, đóng góp phần quan trọng vào sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. Nền y tế cách mạng được xây dựng và mở rộng, thực sự vì nhân dân, vì con người, vì sự nghiệp cách mạng và kháng chiến.
Nhìn lại quá trình chỉ đạo xây dựng hậu phương chiến tranh nhân dân của Đảng trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, có thể thấy những nội dung chủ yếu sau đây:
- Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, lượng định âm mưu, thủ đoạn của đối phương, Đảng, Chính phủ và Hồ Chí Minh đã chú tâm vấn đề xây dựng căn cứ địa- hậu phương và đã có sự chỉ đạo sâu sát trên mặt công tác này.
- Theo quan điểm của Đảng, căn cứ địa - hậu phương không chỉ là những vùng phía sau trận tuyến mà còn là ở những địa bàn nằm sâu trong hậu phương của đối phương. Hậu phương đó dựa vào lòng dân, dựa vào sức dân mà tồn tại và phát triển.
- Để xây dựng và bảo vệ căn cứ địa- hậu phương, Đảng, Nhà nước chủ trương phải dựa chắc vào nhân dân, ra sức xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện cả về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá- xã hội. Thực chất đó là cả một quá trình tạo ra sức mạnh, là quá trình xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt, trong đó, việc xây dựng chế độ mới được xem là nền tảng để củng cố và tăng cường sức mạnh của căn cứ địa- hậu phương trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.
d- Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh
Để đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, điều quan trọng hàng đầu là phải xác định đúng mục đích chính trị của nó, phải tạo ra sức mạnh to lớn, phải có căn cứ địa- hậu phương vững chắc. Trên cơ sở đó lại cũng cần phải có nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh thích hợp đặng phát huy đầy đủ sức mạnh của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cũng như huy động mọi tiềm lực của đất nước, của chế độ, của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh thể hiện ở việc xác định phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự. Tìm hiểu sự phát triển về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, do vậy, cũng là tìm hiểu việc đề ra và chỉ đạo thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự của Đảng trong quá trình kháng chiến.
Ngay từ đầu, Đảng đã xác định và từng bước hoàn chỉnh phương thức tiến hành chiến tranh là: lấy nhỏ đánh lớn, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện. Do nông dân là lực lượng chiếm đa số trong thành phần dân cư và nông thôn (miền núi, đồng bằng, vùng ven đô) là địa bàn chiến lược rộng lớn, để tổ chức toàn dân, động viên toàn dân đánh giặc, về chiến lược quân sự, Đảng chủ trương: phải đứng chân ở nông thôn, đánh ở cả nông thôn và thành thị (chứ không lấy nông thôn bao vây thành thị), đấu tranh toàn diện - chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, ngoại giao, trong đó đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định.
Tư tưởng tiến công và giành quyền chủ động- một tư tưởng chỉ đạo nổi bạt của phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân cũng được đề ra và quán triệt sâu rộng trong quân và dân ngay từ đầu cuộc kháng chiến và từng bước phát triển suốt 9 năm kháng chiến. Tiếp đó, thời kỳ đầu, chủ động triển khai thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, phát triển mạnh mẽ hình thức tác chiến của chiến tranh du kích, làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của đối phương.
Một nội dung lớn thuộc về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng thời kỳ này là nghệ thuật kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, trong đó, đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh chủ yếu, quyết định. Theo quan điểm của Đảng, muốn phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại mọi nỗ lực chiến tranh của đối phương, phải khéo biết kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị; phải đánh trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Pháp cho thấy rõ nghệ thuật kết hợp giữa các mặt đấu tranh này. Nhưng trong tư tưởng và trong chỉ đạo thực tiễn, bao giờ cũng chú trọng đấu tranh vũ trang, xem đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản nhất, phổ biến nhất, quyết định nhất để đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, thực hiện mục đích chính trị của cuộc chiến tranh.
Trong đấu tranh vũ trang, nghệ thuật quân sự chiếm giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp hình thành và phát triển trong điều kiện đất nước vừa giành được độc lập đã phải lập tức đương đầu với thực dân Pháp xâm lược có sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần. Hơn nữa, vào lúc đó, “quân đội ta là một quân đội ấu thơ. Tinh thần dũng cảm có thừa nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu nhiều mặt”[4]. Vì vậy, để đương đầu và đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống thực dân Pháp phải giải quyết một loạt vấn đề căn bản nhằm tạo ra sức mạnh quân sự to lớn, đảm bảo cho quân dân Việt Nam càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Trên thực tế, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân hình thành, phát triển từng bước từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh với đủ ba bộ phận hợp thành là: chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Nội dung gồm những nét chủ yếu sau:
- Từ chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích để phát triển thế tiến công về chiến lược.
- Tích cực tiêu diệt lực lượng đối phương, giữ vững bồi dưỡng và phát triển lực lượng.
- Xác định phương hướng tiến công đúng đắn, tiến lên tổ chức trận quyết chiến chiến lược nhằm đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất bằng đè bẹp ý chí xâm lược của đối phương.
- Chọn đúng hình thức tác chiến, xác định cách tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng thích hợp để làm phá sản các biện pháp tác chiến và các thủ đoạn chiến thuật của đối phương.
- Đánh một cách chủ động, kiên quyết, sáng tạo, bí mật, bất ngờ, nắm vững thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược kịp thời giành thắng lợi quyết định.
Với những nội dung cơ bản trên đây, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp tỏ rõ tính hơn hẳn của nó so với nghệ thuật quân sự của đối phương. Tựu trung, đó là nghệ thuật quân sự lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông về chiến lược; đồng thời lại biết tập trung lực lượng nhiều hơn đối phương một cách hợp lý để đánh thắng trong chiến dịch và chiến đấu ở từng thời điểm và từng hướng chiến lược. Đánh theo cách đó đã phát huy đầy đủ và cao độ sức mạnh của kháng chiến, khoét sâu chỗ yếu của đối phương, buộc đối phương phải đánh theo cách đánh đã được lựa chọn
Nhìn chung lại, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là sự kế tục, phát triển đường lối quân sự chỉ đạo việc chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang trước, trong Cách mạng tháng Tám. Đường lối đó từng bước được hoàn chỉnh trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều hành của Đảng, quân và dân Việt Nam đã vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân vào việc giải quyết thành công một loạt vấn đề về xây dựng và tăng cường lực lượng; về xây dựng, củng cố, mở rộng và phát huy vai trò của căn cú địa hậu phương; về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh… phù hợp với điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến. Nhờ đó, ngay từ đầu, đã giành quyền chủ động về chiến lược trong việc khởi sự chiến tranh. Tiếp đó, triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở trước và sau lưng, không ngừng phát triển lực lượng, làm thất bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của đối phương. Từ đầu năm 1948 đến Thu Đông 1950, song song với việc tiếp tục phát triển chiến tranh du kích, đồng thời từng bước tiến lên vận động chiến, làm thất bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh và chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của phía Pháp. Tiếp đó, sau chiến dịch Biên giới đến khi kết thúc kháng chiến chống thực dân Pháp, bên cạnh chiến tranh du kích được phát triển rộng khắp, Đảng, chính phủ đẩy mạnh vận động chiến, công kiên chiến, chủ động mở những chiến dịch tiến công và phản công với quy mô ngày càng lớn, làm phá sản các cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) là do nhiều nguyên nhân, trong đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên vấn đề hoạch định đường lối chiến tranh nhân dân và sự chỉ đạo thực hiện đường lối đó đóng vai trò rất quan trọng. Trên lĩnh vực này, như đã trình bày ở trên, ưu điểm đầu tiên cần ghi nhận là việc Đảng và Nhà nước Việt Nam, từ rất sớm, đã đề ra được một đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ. Đường lối đó phù hợp với điều kiện Việt Nam, con người Việt Nam, truyền thống đánh giặc của dân tộc Việt Nam, Nó phản ánh đúng ý chí, quyết tâm, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam nên đã khơi dậy, phát huy mạnh mẽ sức mạnh tiềm tàng và to lớn của toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Đường lối đó nêu cao chính nghĩa và nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt nam nên đã tranh thủ và thu hút được sự ủng hộ, đồng tình, giúp đỡ quốc tế cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Trong quá trình chỉ đạo việc triển khai và thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, trong tư tưởng và trên thực tế, đã luôn luôn kết hợp chặt chữ nhịp nhàng và có hiệu quả giữa hai nhiệm vụ chiến lược và kháng chiến và kiến quốc cũng như luôn kết hợp giữa việc tiến hàng cuộc đấu tranh chống xâm lược với việc xây dựng một chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân. Đây cũng là một ưu điểm quan trọng trong quá trình chỉ đạo đường lối kháng chiến, đường lối chiến tranh nhân dân. Sự kết hợp đó đã là một nhân tố vô cùng quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính mà ngay từ đầu đã xác định rất rõ.
Đương đầu với đội quân xâm lược nhà nghề có quân số đông, vũ khí trang bị hiện đại, để giành thắng lợi, về mặt quân sự, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã chỉ đạo quân dân trên cơ sở đẩy mạnh các mặt đấu tranh chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, tư tưởng, ngoại giao, sáng tạo ra cách đánh giặc độc đáo, phù hợp với thực tiễn con người Việt Nam, chiến trường Việt Nam, truyền thống đánh giặc của dân tộc Việt Nam - Đó rõ ràng không chỉ là vấn đề nghệ thuật quân sự mà còn cả những nội dung rộng lớn hơn của phương thức tiến hành chiến tranh. Đó là sự vận dụng và phát triển những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam vào chiến tranh cách mạng. Nó rất khác các cuộc chiến tranh cổ điển mà sự phân định thắng thua chủ đơn thuần dựa vào quân đội chính quy, quân đội tập trung, quân đội nhà nghề. Một cách tổng quát, có thể nói rằng, nghệ thuật quân sự và phương thức tiến hành chiến tranh trong kháng chiến chống Pháp là lấy nhỏ đánh lớn, chiến tranh toàn dân, toàn diện, thắng bằng ý chí, trí tuệ của con người và dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, đề ra và từng bước hoàn chỉnh nghệ thuật quân sự cũng như phương thức tiến hành chiến tranh; chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các vấn đề này một cách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, đã là một thành công, một ưu điểm nổi bật của toàn bộ quá trình kháng chiến.
Hơn nữa, ngay từ những ngày đầu và trong suốt quá trình chiến tranh, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm và có sự chỉ đạo sâu sát sự nghiệp xây dựng phát triển lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc. Trên lĩnh vực này, trong khi rất chú trọng giải quyết các vấn đề về quân số, cơ cấu tổ chức, thành phần lực lượng, trang bị vũ khí, đảm bảo hậu cần, bố trí lực lượng, Đảng, Nhà nước đặc biệt nhấn mạnh và hết sức chú trọng việc xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, mục tiêu chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng cho rằng, đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu bản chất và sức mạnh của lực lượng vũ trang. Muốn vậy, thiết lập và không ngừng củng cố sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng phải là nguyên tắc hàng đầu trong việc xây dựng lực lượng vũ trang. Thực tế lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp cho thấy đây cũng là một thành công của Đảng trong quá trình chỉ đạo đường lối chiến tranh nhân dân.
Chiến tranh trước hết và chủ yếu là sự đối đầu trực tiếp giữa lực lượng vũ trang của các bên tham chiến trên chiến trường. Để đánh bại đối phương, bên cạnh việc đề ra đường lối đúng, xác định được phương thức và nghệ thuật quân sự phù hợp, Đảng, Nhà nước Việt Nam ngay từ đầu và trong suốt quá trình kháng chiến, đã có sự chỉ đạo nhạy bén, linh hoạt. Việc tổ chức kháng chiến ở miền Nam và hoà hoãn với để tranh thủ thêm điều kiện chuẩn bị ở miền Bắc; việc rất chủ động khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc khi tình thế đã trở nên quá bức bách do âm mưu xâm lược của thực dân Pháp; việc xử lý nhạy bén, sáng suốt và đúng đắn các tình huống mới nảy sinh trong quá trình chiến tranh cũng như ở thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến đã chứng minh sự thành công của nghệ thuật chỉ đạo chiến lược và đó cũng là một thành công, một ưu điểm lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bên cạnh những thành công trên đây, trong quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, Đảng cũng đã bộc lộ một số thiếu sót, khuyết điểm. Trong một số trường hợp, do không nắm vững quan điểm kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính nên xuất hiện tư tưởng chủ quan, nôn nóng, muốn đánh nhanh, giải quyết nhanh khi so sánh lực lượng chưa cho phép, khi điều kiện chưa chín muồi, khi thời cơ chiến lược chưa xuất hiện… Ví dụ như, ngay từ năm 1949, đã đề ra chủ trương chuyển mạnh sang tổng phản công. Hay như sau chiến dịch Biên giới,  liên tiếp mở ba chiến dịch lớn ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ vào năm 1951 mà kết quả là bị tổn thất lực lượng, mục tiêu chiến dịch không thực hiện được.
Cũng do không nắm vững đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ; không quán triệt đầy đủ phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc mà có nơi, có lúc, đã huy động sự đóng góp vượt quá khả năng thực tế của nhân dân. Điều đó ở từng chừng mực, đã ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân đối với kháng chiến, cũng như đối với Đảng và Chính phủ. Khi phát hiện được tình trạng trên đây, Đảng và Chính phủ đã kịp thời uốn nắn và đề ra những biện pháp thích ứng để khắc phục.
Về mặt học tập và vận dụng kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc, bên cạnh những thành công, còn có biểu hiện giáo điều, thiếu kinh nghiệm. Nói cách khác, trong việc học tập kinh nghiệm bên ngoài, đôi lúc, ở mặt này hay mặt khác, còn tiếp thu thiếu chọn lọc. Ví dụ, ngay từ ngày đó, khi kháng chiến đang diễn ra cũng như một thời gian sau, khi chiến tranh kết thúc, còn máy móc trong việc phân định các giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công. Hoặc như trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng Đảng, còn biểu hiện định kiến, hẹp hòi, nặng về “thành phần chủ nghĩa”; áp dụng khá cứng nhắc những kinh nghiệm “chỉnh đảng”, “chỉnh quân” …
Trên một số mặt cụ thể, bên cạnh những thành công, còn phạm những khuyết điểm. Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang trong thời kỳ 1948, 1949, một số địa phương đã rút đại đội độc lập và tập trung, bộ đội địa phương quá sớm. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực tới phong trào và thế, lực tiến công của chiến tranh du kích địa phương. Ngược lại, có nơi, do chậm rút các đại đội độc lập về nên chẳng những bộ đội địa phương không phát triển được mà bộ đội chủ lực cũng lại buộc phải phân tán để gánh vác nhiệm vụ của bộ đội địa phương và chính điều đó ảnh hưởng tới khả năng thực hiện các đòn vận động chiến của bộ đội tập trung.
Mặc dù còn có một số vấp váp, khuyết điểm, còn nhìn chung, suốt 9 năm lãnh đạo quân và dân Việt Nam kháng chiến, trong việc chỉ đạo thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, Đảng đã có những thành công quan trọng Những thành công và những khuyết điểm này để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho giai đoạn cách mạng tiếp theo - những tháng năm quân dân Việt Nam phải đương đầu với thế lực xâm lược mới là đế quốc Mỹ (1954 - 1975).              
              

Toàn văn bài viết có thể download tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ





[1] Hồ Chí Minh toàn tập, t.4, tr. 3,4,480
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, t.5, sđd, tr.132
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, sđd. tr.336
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 1995, t.6, tr.163

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!