Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

CỤ THỂ HÓA VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC



PGS,TS. Hồ Khang
Nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình để đạt được mục tiêu độc lập, hoà bình, thống nhất mà không xảy ra chiến tranh. Song, Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đã sử dụng mọi biện pháp chống lại sự nghiệp giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất đất nước. Nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực chống lại sự xâm lược của Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.
Để đáp ứng yêu cầu của của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng LĐVN (9.1960) nhóm họp và xác định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - đó là đường lối xây dựng hậu phương lớn miền Bắc XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn thành CMDTDCND ở miền Nam, tiến lên thống nhất đất nước.

Sau Đại hội lần thứ III của Đảng, đất nước bước vào giai đoạn triển khai và thực hiện Nghị quyết của Đại hội, thực hiện đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cuối năm 1960, ở miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng phát triển mạnh, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài. Đứng trước tình hình đó, ỷ vào sức mạnh của một siêu cường, đồng thời tin tưởng ở chiến lược “phản ứng linh hoạt”, Mỹ quyết định chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt” hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến, đè bẹp phong trào cách mạng miền Nam với lực lượng quân đội Sài Gòn do Mỹ trang bị, huấn luyện và cố vấn Mỹ chỉ huy. Tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ tăng thêm viện trợ quân sự, kinh tế và cố vấn cho Nam Việt Nam; tăng cường, mở rộng lực lượng vũ trang, bán vũ trang của quân đội Sài Gòn; lập nhóm chuyên viên kinh tế, tài chính, quân sự cao cấp xây dựng kế hoạch hành động chung giữa Chính phủ Mỹ và Chính phủ Sài Gòn; đồng thời, triển khai mạnh mẽ chương trình lập ấp chiến lược với mục tiêu cơ bản “bình định” xong miền Nam Việt Nam trong 18 tháng. Ngày 8.2.1962, phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) được chuyển thành Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV). Dưới quyền chỉ huy và điều hành của MACV, số lượng cố vấn và các đơn vị yểm trợ Mỹ không ngừng tăng lên. Nếu năm 1960, lực lượng yểm trợ và cố vấn Mỹ mới chỉ 1.077 tên, thì năm 1962, con số đó lên tới 10.640 tên. Ngoài số cố vấn và các đơn vị yểm trợ chiến đấu Mỹ kể trên, Mỹ còn đưa vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí thiết bị chiến tranh, tăng thêm viện trợ quân sự, viện trợ kinh tế cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Từ năm 1961 trở đi, số viện trợ quân sự bắt đầu vượt viện trợ kinh tế, chứng tỏ trong việc thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, biện pháp quân sự được Mỹ, Diệm ưu tiên hàng đầu. Với sự tăng cường viện trợ của Mỹ, quân đội Sài Gòn nhanh chóng phát triển về số lượng, tăng cường về trang bị vũ khí, cải tiến về biên chế, tổ chức, hệ thống chỉ huy, công tác huấn luyện.
Trước những chuyển biến của tình hình, ngày 24.1.1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của  cách  mạng  miền Nam. Chỉ rõ những mâu thuẫn và sự bất lực của chính quyền Ngô Đình Diệm, khẳng định rằng,thời kỳ  tạm  ổn  định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ khủng  hoảng  liên  tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu”[1], Chỉ thị xác định nhiệm vụ cấp bách trước mắt lúc này của cách mạng miền Nam là:
 1). “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta về cả hai mặt chính  trị  và  quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu  tranh  chính  trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu  diệt  sinh  lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan  rã  chính  quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng  rộng  lớn”[2].
2). “Tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng  bằng,  ra  sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam”[3].
Đặc biệt, lúc này tương quan lực lượng đã thay đổi, nên Bộ Chính trị quyết định chuyển từ phương châm “đấu tranh chính trị là chủ  yếu,  đấu  tranh quân sự là để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị” sang phương châm “đẩy mạnh hơn nữa đấu  tranh  chính  trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên  song  song  với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai  mặt  chính  trị và quân sự[4]. Do lực lượng so sánh ở  từng  vùng có khác nhau, nên Bộ Chính trị chỉ rõ phải quát triệt, nắm vững phương  châm  công  tác ba vùng, vận dụng phương châm đó phải thích hợp với đặc điểm, yêu cầu, so sánh lực lượng của từng vùng.
Như vậy, Chỉ thị ngày 24.1.1961 của Bộ Chính trị là sự cụ thể hóa và phát triển các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III trong điều kiện mới, đề ra phương hướng đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược.
Đồng thời với bước chuyển biến trên đây, để đáp ứng đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Trung ương Đảng chủ trương cần phải tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cách mạng miền Nam. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) tháng 1.1961 quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ. Đây là một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ương gồm một số Ủy viên Trung ương được Ban Chấp hành Trung ương cử ra và ủy nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam. Tiếp đó, để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ huy tập trung thống nhất đối với lực lượng vũ trang, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và chỉ thị của Tổng Quân ủy, ngày 15.2.1961, các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Hệ thống chỉ đạo, chỉ huy quân sự từ Miền đến xã từng bước được củng cố. Cùng với việc tăng cường hệ thống tổ chức, trong năm 1961, 1962, thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, với tinh thần nỗ lực và sự cố gắng cao độ của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam nhanh chóng được xây dựng. Đến cuối năm 1961, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu đã xây dựng được 11 tiểu đoàn; bộ đội địa phương tỉnh, huyện có khoảng 24.500 cán bộ chiến sĩ; du kích, tự vệ có khoảng 100.000 người. Tháng 7.1961, Trung ương Cục quyết định thành lập trung đoàn chủ lực Miền mang mật danh Q761. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển quan trọng của lực lượng chủ lực Quân giải phóng trong năm đầu đối phó với chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Song song với sự lớn mạnh của cách mạng miền Nam, công cuộc xây dựng miền Bắc, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) thu được những kết quả quan trọng. Chỉ trong một thời gian ngắn, “miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”[5]. Đây là những điều kiện căn bản cho nhân dân Việt Nam  củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng ở miền Nam, chống lại những kế hoạch bình định miền Nam đẫm máu, khốc liệt. Các chiến thắng vang dội trên chiến trường miền Nam (chiến thắng Phước Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng, Bến Cầu…) phản ánh thế và lực đang đi lên. Sau một năm tiến hành chiến tranh cách mạng, quân và dân miền Nam đã khắc phục khó khăn, vượt qua những thử thách ác liệt, tiến hành đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị trên cả ba vùng chiến lược, từng bước đưa phong trào cách mạng phát triển. Trong năm 1961, bằng tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, quân, dân miền Nam đánh đòn phủ đầu vào kế hoạch Stalây - Taylo, làm cho Mỹ-Diệm bị động về chiến lược.
Không cam chịu thất bại, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường càn quét đánh phá, dồn dân vào ấp chiến lược. Nhằm đánh bại âm mưu của địch, quân dân miền Nam đẩy mạnh đấu tranh quân sự chống địch càn quét, thúc đẩy phong trào nổi dậy phá tan bộ máy kìm kẹp của địch, phá vỡ từng mảng ấp chiến lược ở một số vùng nông thôn đồng bằng và miền núi. Song song với đấu tranh quân sự, chính trị, cuộc đấu tranh chống địch gom dân, lập ấp chiến lược của quân và dân các địa phương miền Nam cũng diễn ra quyết liệt. năm 1961 và năm 1962, địch chẳng những không thực hiện được mục tiêu đánh bại chiến tranh du kích, tiêu diệt chủ lực, mà ngược lại, lực lượng vũ trang miền Nam không ngừng lớn mạnh; mục tiêu dồn 10 triệu nông dân vào 16.000 ấp chiến lược phải rút xuống còn 7.000 ấp vào giữa năm 1962 và cho đến cuối năm 1962, chỉ lập được 3.900 ấp, đạt tỉ lệ 31,7%. Đây là một trong những thất bại nặng nề của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Trước diễn biến của tình hình chiến trường, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 2.1962 và tháng 12.1962 được tổ chức. Bộ Chính trị nhận định về tình hình miền Nam: “Phong trào cách mạng  miền  Nam  đã tiến lên từng bước vững chắc và đến nay đã  giành  được  những thắng lợi to lớn có tính chất chiến lược”[6], dồn Mỹ - Diệm vào thế lúng túng bị động. Để cứu vãn tình hình, “Mỹ đã nắm quyền chỉ huy quân sự ở miền  Nam,  đưa  một số lực lượng vũ trang trực tiếp tham gia chiến  tranh  và  tạo ra một hình thế chiến tranh thực sự giữa đế  quốc  Mỹ  và tay sai với nhân dân miền Nam”[7], tạo ra một cục diện chiến tranh thực sự với quy mô khá lớn ở miền Nam Việt Nam và là một sự kiện hết sức nghiêm  trọng  trong  tình hình thế giới hiện nay. Tuy nhiên, sự can thiệp ngày càng sâu hơn của Mỹ vào miền Nam Việt  Nam không làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng. Sự can thiệp ấy chẳng những  không ngăn chặn được phong trào cách mạng  của  nhân  dân miền Nam ngày càng phát triển, “mà trái lại càng làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ ngày  càng  sâu  sắc thêm, làm cho tinh thần dân tộc chống đế quốc  Mỹ  của  nhân dân, ngày càng phát triển mạnh mẽ thêm”[8]. Dù có nhiều âm mưu và thủ đoạn mới, Mỹ vẫn không thực hiện được kế hoạch Stalây-Taylo nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam trong 18 tháng, mà còn bị thiệt hại nhiều hơn năm ngoái. Nhìn chung  về  toàn  cục, “sự can thiệp vũ trang của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam mang tính chất phòng ngự, nhằm ngăn  chặn  bước  tiến của phong trào cách mạng và củng cố lại phòng  tuyến  của  chúng ở Đông Nam Á sau khi chúng phải lui một  bước  ở  Lào”[9]. Sự chuyển hướng chiến lược này đồng thời cũng phản ánh ba thất bại lớn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam: 1). Sự thất bại bước đầu  về  mặt  chiến lược; 2). Sự thất bại bước  đầu  về  mặt chiến thuật và kỹ thuật; 3). Sự thất bại lớn về chính trị. 
Bộ Chính trị nêu lên chủ trương hoạt động chủ yếu lúc này vẫn là tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu tranh chính trị; nắm vững phương châm hoạt động ở ba vùng  một  cách  linh hoạt, sáng tạo, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh địch bằng ba mũi giáp công, “phát động một phong trào đấu tranh chính trị và quân sự rộng  khắp,  liên  tục tấn công làm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực”[10]. Dựa trên tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam, so sánh lực lượng, Bộ Chính trị xác định phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng  miền  Nam  là: “Trường kỳ đấu tranh bằng cả quân sự và chính  trị,  giữ  vững và phát triển phong trào, giành thắng lợi từng  phần,  đẩy  lùi địch từng bước, phát triển và che giấu lực lượng,  chuẩn  bị  điều kiện, tranh thủ thời cơ để tiến lên giành những  thắng  lợi  quyết định giải phóng miền Nam, thống nhất nước  nhà”[11]. Nhiệm vụ cơ bản sắp tới của cách mạng miền Nam là “hết sức mở rộng lực lượng quân sự và chính trị, phát động du kích chiến tranh rộng khắp, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gãy kế hoạch lập ấp chiến lược của địch, trước mắt làm thất bại kế hoạch tiến công của địch trong năm 1963, giữ vững và phát triển lực lượng của ta, mở rộng vùng căn cứ và vùng giải phóng”[12]. Quá trình phát triển của cuộc chiến tranh yêu nước của nhân  dân  miền  Nam là quá trình phát triển của một cuộc chiến tranh  du  kích,  toàn dân, toàn diện và trường kỳ, chống lại một kẻ  địch  mạnh,  tàn bạo và thâm độc; trong quá trình đó, xuất hiện trạng thái giằng co quyết liệt  giữa  ta  và đối phương. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh này, nhân dân miền Nam phải dựa vào sức mình là chính, tự lực cánh sinh cao độ, song, “đồng thời phải có sự giúp đỡ tích cực của miền  Bắc  và  sự ủng hộ ngày càng nhiều của phe xã hội chủ nghĩa  cũng  như  của phong trào giải phóng dân tộc và của các lực  lượng  hoà  bình dân chủ khác trên thế giới[13]. Trong tình hình lực lượng so sánh lực lượng ngày càng biến đổi có lợi cho cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị cho rằng, có thể xuất hiện nhiều khả năng. “Trong bất kì trường hợp nào, ta cũng phải thắng địch. Nhưng ta phải thắng địch từng bước, phải có từng giai đoạn quá độ trên bước đường tiến tới chiến thắng hoàn toàn”[14]. Như vậy, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 2-1962 và tháng 12-1962 đã chỉ ra những phương hướng cơ bản cho việc chỉ đạo cách mạng miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên trong năm 1963 và lường định sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam phải trải qua một quá trình đánh thắng địch từng bước trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Bộ Chính trị, nhờ hình thức, phương thức đấu tranh phù hợp, đúng đắn, tinh thần và sự nỗ lực cao độ của quân, dân miền Nam, năm 1963 đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng miền Nam bắt đầu bằng thắng lợi vang dội Ấp Bắc (1-1963). Đánh giá về thắng lợi này, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn viết: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được”[15]. Sau thắng lợi Ấp Bắc vang dội, khắp các chiến trường và các địa phương miền Nam, phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” phát triển mạnh mẽ, trong đó, sự kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đòn tiến công quân sự và nổi dậy của quàn chúng đã phá banh một số lớn ấp chiến lược. Chỉ trong năm 1963, quân, dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu một lực lượng quân địch khá lớn (7,8 vạn tên địch); bắn rơi, phá huỷ, phá hỏng một số lượng lớn vũ khí, khí tài của địch, đồng thời phá banh, phá rã 2.895 trong tổng số 6.164 ấp chiến lược, giải phóng hàng nghìn thôn ấp với gần chín triệu dân. Chương trình bình định của địch, xương sống của “chiến tranh đặc biệt”, về cơ bản đã bị đánh bại. Thắng lợi của cách mạng miền Nam trong năm 1963 đã đẩy chính quyền và quân đội Sài Gòn vào thế suy yếu toàn diện, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đang từng bước bị phá sản. Trong khi đó,chính sách đối xử không bình đẳng giữa các tôn giáo của chính quyền Diệm - Nhu đã dẫn đến cuộc đấu tranh của Phật giáo chống chính quyền Diệm bùng nổ, góp phần đẩy chính quyền Sài Gòn vào cơn khủng hoảng, tình hình miền Nam ngày càng mất ổn định một cách nghiêm trọng. Trước tình hình căng thẳng có nguy cơ làm sụp đổ chính quyền Sài Gòn mà Mỹ dày công xây dựng, Mỹ bắt đầu xem xét vai trò của hai anh em Diệm - Nhu, thực hiện chính sách “thay ngựa giữa đường”, lật đổ chính quyền Diệm (11.1963). Ngày 22.11.1963, Tổng thống Mỹ Kennơđi, người quyết định tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở Việt Nam và Đông Dương cũng bị ám sát. Ngay sau khi Kennơđi bị giết, Phó Tổng thống Giônxơn lên thay, quyết định tiếp tục đổ của vào chiến tranh Việt Nam. Nhận được sự viện trợ ồ ạt từ Mỹ, chính quyền Sài Gòn khẩn trương vạch kế hoạch, tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân càn quét, dồn dân, lập ấp chiến lược, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường. Mọi cố gắng của địch đều bị quân và dân miền Nam kết hợp ba mũi đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận trên khắp ba vùng chiến lược đánh trả, gây cho chúng những thiệt hại nghiêm trọng. Trong lúc đó, tình hình thế giới tiếp tục biến chuyển, tác động tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là mâu thuẫn Xô - Trung đang trở nên ngày càng gay gắt[16].
Tình hình mới đặt ra những yêu cầu đòi hỏi Đảng LĐVN phải có những đối sách mới trong quan hệ với quốc tế và đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam. Vì vậy, tháng 12-1963, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị đã thông qua hai Nghị quyết quan trọng: Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta Ra sức phấn đấu, tiến lên giành những thắng lợi ở miền Nam. Hội nghị tập trung phân tích những vấn đề cốt yếu, quan trọng của cách mạng miền Nam:
Về tình hình cách mạng miền Nam: Hội nghị Phân tích kỹ càng mặt mạnh, mặt yếu của cả đôi bên, đánh giá cao sự nỗ lực của quân, dân miền Nam anh hùng, đã  vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, tiếp tục phát  huy  truyền  thống đấu tranh anh dũng và bất khuất của dân  tộc,  sáng tạo ra nhiều hình thức đấu tranh phong phú, làm nên những thắng lợi to lớn. Nhân  dân  miền Nam đã chứng tỏ khả năng  chiến  thắng  địch trong bất kể hoàn cảnh nào, nhất định có  đủ  nghị  lực, tài năng, lực lượng và chí kiên nhẫn để đánh bại  mọi  mưu  mô, kế hoạch của Mỹ, làm cho đối phương sa lầy,  tiến  thoái  lưỡng nan và cuối cùng đành chịu thất bại và rút  khỏi  miền  Nam Việt Nam.
Về âm mưu và hành động của đối phương, trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Hội nghị nhận định: “Khả năng thứ nhất: Mỹ tham gia với mức độ như hiện nay,  hoặc  hơn  một chút; khả năng thứ hai: Mỹ tham gia mạnh hơn, đưa quân vào  gấp  mấy  lần hoặc cả quân Mỹ và quân đội của khối xâm lược  Đông  -  Nam Á cùng can thiệp vào”[17]. Hội nghị cũng dự đoán về khả năng cách mạng miền Nam phải thông qua một  bước  quá  độ với những hình thức và phương pháp đấu tranh  phức  tạp  mới đạt được thắng lợi hoàn toàn. Trong những điều kiện đó, Hội nghị chủ trương: “Đưa  cách mạng miền Nam phát triển theo hướng giành  thắng  lợi  từng phần, đẩy lui địch từng bước, tiến tới tổng  công  kích,  tổng khởi nghĩa để đi đến toàn thắng”[18].  Quá  trình  tiến tới tổng công kích và tổng khởi nghĩa cũng là một quá trình tổng công kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần, giằng  co  phức  tạp, đánh lui địch từng bước, giành thắng lợi từng  phần,  tiến  tới giành thắng lợi toàn bộ. Vì thế, Hội nghị chỉ rõ: “Phương châm chiến lược chung của cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Về phương châm đấu tranh thì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang một cách linh hoạt tùy theo từng vùng và từng thời kì khác nhau”[19]. Xác định rõ vị trí, vai trò của đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, Hội nghị cho rằng, đấu tranh chính trị đóng vai trò rất cơ bản và rất quyết định còn đấu tranh vũ trang cũng đóng một vai trò rất cơ bản,  rất  quyết  định, nhưng có vai trò quyết định trực tiếp. Phương châm kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ  trang  không  phải chỉ áp dụng tạm thời mà phải áp dụng lâu  dài, được vận dụng ở ba vùng khác nhau (vùng rừng núi, vùng đồng bằng nông  thôn  và  vùng đô thị) và phải được thực hiện một cách linh hoạt, tuỳ theo từng  vùng  và  từng thời kỳ khác nhau; đồng thời, “phải phối hợp đánh  địch  bằng  ba mũi: đánh địch bằng chính trị, đánh địch bằng  quân  sự  và đánh địch bằng binh vận”[20]. Đồng thời, Hội nghị cũng chỉ rõ yêu cầu, phương hướng lãnh đạo: Trong bất kỳ trường hợp nào, phải kiên quyết loại trừ mọi thái độ lừng chừng, muốn đứng lại ở bước  quá  độ, phải có quyết tâm động viên  toàn  Đảng,  toàn dân, toàn quân giành cho được thắng lợi  tối  đa.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra, tranh thủ giành thắng lợi ở mức cao nhất, không những Đảng bộ và nhân dân miền Nam phải cố gắng vượt bậc mà nhân dân miền Bắc cũng phải nỗ lực rất cao. Hội nghị khẳng định: “Vị trí của hai miền trong sự nghiệp cách mạng cả nước do Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra vẫn không thay đổi, nhưng “đã đến lúc miền Bắc phải tăng cường chi viện cho miền Nam hơn nữa; miền Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò căn cứ địa cách mạng toàn quốc của mình”[21]; và do sự chi viện đó mà cũng cần có sự điều chỉnh kế hoạch xây dựng miền Bắc một cách thích đáng”[22].
Trong Nghị quyết Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta, Hội nghị Trung ương đã phân tích đặc điểm tình hình thế giới, nội dung và tính chất của thời đại, chỉ ra rằng, so sánh lực lượng trên thế giới ngày càng thay đổi có lợi cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; trên cơ sở đó, đề ra những chủ trương và nhiệm vụ quốc tế của Đảng: Góp phần khôi phục và tăng cường đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế; tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh; tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa; ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn nhằm góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới[23].
Một cách tổng quát, Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng (11.1963) đã phân tích một cách thấu đáo tình hình, chỉ ra con đường chiến thắng kẻ địch. Đó là con đường chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình  là  chính;  kết  hợp  đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang;  vận  dụng  linh  hoạt phương châm hoạt động ở ba vùng, đánh  địch  bằng  ba mũi chính trị, quân sự và binh vận. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện,  tiếp  tục  truyền  thống và phát huy kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp trong những điều kiện mới, với một trình độ cao hơn, phong phú hơn. Với nội dung thiết thực, kịp thời, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9 đã bổ sung, hoàn chỉnh một bước đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do Hội nghị Trung ương 15 (khoá II), Đại hội III và các nghị quyết của Bộ Chính trị tiếp sau đó đề ra; cụ thể hoá những nhiệm vụ mà cách mạng miền Nam phải tiến hành để đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương đánh dấu bước trưởng thành về lý luận của Đảng LĐVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9, Đảng LĐVN nhận định rằng, thất bại liên tiếp ở miền Nam và Lào, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lúng túng và nhất định sẽ điên cuồng đối phó, trước sau gì cũng sẽ tập kích bằng đường biển và đường không vào miền Bắc Việt Nam; do vậy, miền Bắc cần tăng cường sẵn sàng chiến đấu. Ngày 27.3.1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt nhằm động viên chính trị ý chí, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân miền Bắc, chuẩn bị cho miền Bắc đương đầu có hiệu quả với những thách thức mới. Ở miền Nam, quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 và các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, việc xây dựng quân chủ lực, xây dựng căn cứ địa - chỗ đứng chân được đẩy mạnh. Năm 1964, trên chiến trường miền Nam đã xây dựng được hai khối chủ lực cơ động với hệ thống căn cứ địa liên hoàn. Quân, dân miền Nam đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, làm chuyển biến cục diện chiến trường hết sức có lợi. Tại nông thôn đồng bằng, với sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương, nhân dân nổi dậy phá tan từng mảng hệ thống ấp chiến lược, giành quyền làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau. Cùng lúc, phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân cùng với những trận đánh táo bạo của đặc công và biệt động ở vùng đô thị càng đẩy địch vào thế rối ren. Chương trình bình định của Mỹ - xương sống của cuộc “chiến tranh đặc biệt”, về cơ bản bị thất bại trên nhiều bình diện, trong đó kế hoạch Giônxơn- Mắc Namara bị đổ vỡ, đã làm cho tình hình chính trị, quân sự vào những tháng cuối năm 1964 có bước chuyển biến mới có lợi cho cách mạng. Lực lượng chính trị, quân sự phát triển lớn mạnh hơn trước, đặc biệt là khối chủ lực cơ động đã đủ sức tạo ra những quả đấm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.
Thất bại và thua đau trên chiến trường miền Nam, Mỹ dựng lên cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, và ngay sau đó, sử dụng không quân mở cuộc tiến công xuống miền Bắc Việt Nam vào ngày 5.8.1964. Đồng thời, chính phủ Mỹ trình Quốc hội thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” mở đường cho nỗ lực quân sự mới của Mỹ ở Việt Nam. Trong khi đó, ở Lào, Mỹ tăng cường “chiến tranh đặc biệt” nhằm cắt đứt chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tuyền tuyến lớn miền Nam, củng cố vị trí Mỹ và phái hữu ở Lào, cô lập cách mạng miền Nam. Song âm mưu của Mỹ ở Lào cũng từng bước bị phá sản. Trong năm 1964, địch chẳng những không đạt được các mục tiêu chúng đề ra, ngược lại, chúng vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của lực lượng cách mạng miền Nam và sự đánh trả quyết liệt của quân, dân miền Bắc. Chiến thắng Bình Giã (12.1964), An Lão (12.1964) đánh dấu bước phát triển mới của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Quyền chủ động chiến lược của cách mạng được củng cố và phát huy mạnh mẽ trên khắp ba vùng chiến lược. Với chiến thắng Bình Giã, An Lão, quân và dân miền Nam đã đánh bại về cơ bản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Nhận định về bước phát triển của chiến trường miền Nam được mở ra bởi chiến thắng Bình Giã, An Lão, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn viết: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã, thì Mỹ thấy sẽ thua ta trong chiến tranh đặc biệt”[24]. Tính chung toàn miền trong năm 1964, quân và dân miền Nam đã đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị trên cả ba vùng chiến lược, giáng cho quân đội Sài Gòn những đòn nặng nề, phá rã, phá banh 3.659 ấp chiến lược; mở rộng vùng giải phóng, vùng làm chủ trên 2/3 đất đai toàn miền và với 10 triệu dân, làm thất bại về cơ bản “quốc sách” ấp chiến lược của địch. Chiến tranh nhân dân phát triển đều khắp. Với thắng lợi đó, thế và lực của cách mạng miền Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, vững chắc; mọi nỗ lực của địch trong “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản về căn bản. Ở miền Bắc, với tinh thần cảnh giác cao, các lực lượng phòng không, không quân và nhân dân đã giáng trả thích đáng sự xâm lấn của quân địch trên bầu trời, tăng cường lực lượng phòng không, không quân, tích cực bảo vệ các thành phố trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định…
Như thế, từ năm 1964 đến những tháng đầu của năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam phát triển mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lược, “chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ triển khai thực hiện ở miền Nam Việt Nam ngày càng bị thất bại nghiêm trọng. Thắng lợi của quân, dân trên hai miền Nam, Bắc đẩy chính quyền Sài Gòn lún sâu vào khủng hoảng, mâu thuẫn nội bộ bộc lộ gay gắt, các cuộc đảo chính và âm mưu đảo chính gạt bỏ lẫn nhau, tranh giành quyền lực diễn ra liên tục. Đầu năm 1965, VNDCCH đẩy mạnh đẩy mạnh tiến công địch trên khắp các chiến trường, đối phó lại, Mỹ mở rộng hoạt động không quân, ném bom bắn phá miền Bắc, đưa những đơn vị chiến đấu đầu tiên vào miền Nam.
Trong điều kiện chiến tranh đang lan rộng ra cả nước, trước diễn biến mới của tình hình trong nước cũng như quốc tế, Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) Ban chấp hành Trung ương Đảng họp (3.1965, khóa III), ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt, quyết định chuyển toàn bộ miền Bắc từ thời bình sang thời chiến trên tất cả các lĩnh vực tư tưởng, tổ chức, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; đảm bảo cho miền Bắc có đầy đủ sức mạnh đánh thắng không quân, hải quân Mỹ; duy trì và giữ vững sản xuất, tăng sức chi viện cho chiến trường miền Nam. Từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11, cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tiếp tục leo thang trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Từ mùa Hè năm 1965, quân đội Mỹ và quân đội một số nước đồng mình của Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Tháng 7.1965, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn chấp thuận kế hoạch “tìm và diệt” của Đại tướng Oét-mo-len - Tư lệnh Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV). Theo đó, Mỹ sẽ hoàn tất các mục tiêu chiến lược của cuộc chiến tranh cục bộ trong vòng 2 năm hoặc 2 năm 6 tháng. Thế nhưng ngay từ đầu, quân và dân trên cả hai miền Nam, Bắc đã nêu cao quyết tâm, giữ vững quyền chủ động chiến trường, mở các cuộc tiến công quân Mỹ ở miền Nam và giáng trả mạnh mẽ không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc. Tháng 12.1965, từ thực tiễn chống Mỹ, cứu nước trên cả hai miền và trên cơ sở đánh giá chuyển biến của tình hình chiến trường trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khoá III) khai mạc dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ mới cho cách mạng hai miền.
Hội nghị cho rằng, trước việc Mỹ đưa quân chiến đấu Mỹ vào chiến trường miền Nam, leo thang đánh phá miền Bắc, vấn đề lớn đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân là phải đánh giá đúng lực lượng và khả năng của kẻ địch; đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả năng to lớn của nhân dân trên cả hai miền. Với tầm nhìn chiến lược, phân tích, đánh giá đúng lực lượng so sánh những mặt mạnh tạm thời và những chỗ yếu cơ bản của đối phương, những hạn chế tạm thời và những thế mạnh cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hội nghị chỉ rõ: “Ngày nay, mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở vững chắc để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch”[25]. Hội nghị hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”[26].
Trong tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hoà bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền, để thực hiện nhiệm vụ chung đó, Trung ương Đảng chỉ rõ cần phải thấu suốt những vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam: Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ cách mạng của cả nước, vì miền Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước; đánh bại Mỹ trên chiến trường chính là miền Nam không chỉ là nhằm giải phóng miền Nam, mà còn là biện pháp tích cực nhất để bảo vệ miền Bắc, tiến lên thống nhất nước nhà.
Thứ hai, nắm vững phương châm chiến lược chung trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Mỹ, cứu nước là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính., song “cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả haimiền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam”[27].
Thứ ba, kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công; trong đó, “đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng”[28], nhưng phải được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, để thu được kết quả lớn nhất.
Thứ tư, đối với quốc tế, trên cơ sở dựa vào sức mình là chính, cần hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc: “Miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam”[29]. Miền Bắc “vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời tích cực chuẩn bị đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước ta”[30]. Trung ương Đảng quyết định chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc sang thời chiến để phù hợp với tình hình địch đánh phá; đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Cùng với việc chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường quốc phòng của miền Bắc, cần phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới.
Trung ương Đảng cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao, nhằm làm rõ chính sách và hành động xâm lược phi nghĩa của Mỹ, tính chính nghĩa cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, chỉ rõ: “Căn cứ vào yêu cầu nói trên, cần phải tuỳ theo thái độ chính trị của chính phủ và nhân dân từng nước, từng khu vực mà miền Bắc và miền Nam đề ra yêu cầu giúp đỡ và ủng hộ cho thích hợp”[31].
Với việc phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và đối, khẳng định thất bại tất yếu của Mỹ, vạch rõ nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng hai miền, động viên quân đội và nhân dân cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược, Hội nghị lần thứ 11, 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và 12 là kết tinh giữa thực tiễn sáng tạo của quần chúng với trí tuệ của Đảng, trở thành văn kiện lịch sử củng cố lòng tin, chỉ đạo quân và dân hai miền Nam - Bắc vững bước vượt qua gian lao, thử thách để tiến đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc đọ sức cam go với kẻ thù có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh hơn gấp nhiều lần.
Việc Mỹ ồ ạt đưa quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam Việt Nam và sử dụng không quân, hải quân Mỹ đánh phá miền Bắc tuy đã phần nào cứu vãn được sự sụp đổ và tan rã nhanh chóng của chính quyền, quân đội Sài Gòn, song, quân Mỹ không thể ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, không tránh được các đòn tiến công như vũ bão của Quân giải phóng và không thể giành được quyền chủ động chiến trường như mục tiêu đề ra trong kế hoạch. Điều đó chứng tỏ rằng, dù quân Mỹ vào miền Nam, nhưng không thể đảo ngược được chiều hướng thua của quân đội Sài Gòn. Cả quân Mỹ lẫn quân đội Sài Gòn đều bị mắc kẹt trong thế trận chiến tranh nhân dân, luôn bị động về chiến lược, lúng túng về chiến thuật đối phó.
Tuy nhiên Mỹ vẫn tiếp tục tăng cường lực lượng và phương tiện chiến tranh, hòng đánh mạnh, thắng nhanh về mặt quân sự; đồng thời, tăng cường những thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, gọi là để giải quyết vấn đề Việt Nam, nhưng lại đòi Việt Nam thương lượng không điều kiện. Lúc này, một mặt, Đảng LĐVN nhấn mạnh quyết tâm chiến đấu chống Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam, đập lại mọi luận điệu hoà bình giả hiệu, đòi thương lượng không điều kiện của Mỹ; mặt khác, Đảng cũng tính đến việc đưa Mỹ vào cục diện vừa đánh, vừa đàm. Đến đầu năm 1967, những thắng lợi của nhân dân hai miền đất nước đã tạo ra những khả năng mới để đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ. Vì thế, Bộ Chính trị quyết định mở mặt trận ngoại giao, vận dụng sách lược vừa đánh, vừa đàm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Trung ương Đảng (1.1967) được tổ chức để đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Sau khi phân tích tình hình trên chiến trường, Hội nghị nhận định năm 1967-1968, đặc biệt là năm 1967, cuộc chiến đấu sẽ diễn ra rất gay go, quyết liệt. Âm mưu của địch là cố gắng giành thắng lợi quân sự, tạo thế vững vàng làm hậu thuẫn cho một giải pháp chính trị để kết thúc chiến tranh có lợi cho chúng, đồng thời chuẩn bị điều kiện để khi cần - tức là khi chưa đạt được giải pháp chính trị có lợi, thì kéo dài chiến tranh. Lúc này, quyết tâm chiến lược của toàn quân, toàn dân là trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, “động viên và tập trung lực lượng của cả nước, cố gắng cao độ, đập tan âm mưu của địch, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước[32]. Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, phải tiếp tục phát huy những thắng lợi đã giành được, ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam. Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa.
Về mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, Nghị quyết chỉ rõ: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”[33]. Hội nghị cũng cho rằng, trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh ở Việt Nam, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà còn giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.
Hội nghị cho rằng, thời gian qua, chưa có thời cơ vận dụng sách lược vừa đánh, vừa đàm, vì phía Mỹ còn cho rằng đưa quân chiến đấu Mỹ ồ ạt sang tham chiến ở miền Nam thì có thể giành được thắng lợi. Trải qua gần 2 năm đường đầu với quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, với không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc, thực tế chứng minh bây giờ tiến công đối phương về ngoại giao là đúng lúc, vì cách mạng miền Nam đã và đang thắng địch, thế của cách mạng miền Nam là thế mạnh. Mục đích cuộc tiến công ngoại giao lúc này là phát huy tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thế tất thắng; tranh thủ mọi sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới; từ đó, lập một mặt trận thống nhất của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược. Để thực hiện những mục tiêu ngoại giao quan trọng nêu trên, phải nắm vững phương châm ngoại giao: “Phát huy thế mạnh, thế thắng của ta; chủ động tiến công địch; giữ vững tính độc lập, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em”[34]. Kiên định nguyên tắc “kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, cần vận dụng sách lược ngoại giao một cách linh hoạt, khôn khéo. Khẳng định vai trò to lớn của đấu tranh ngoại giao, Hội nghị cũng đồng thời khẳng định một vấn đề có tính mấu chốt: “Thắng lợi trên chiến trường là quyết định”, vì thế, trong bất cứ trường hợp nào, dù đế quốc Mỹ ngừng ném bom hoặc không ngừng ném bom miền Bắc, “phải kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam và đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc”[35].
Hội nghị tính đến hai khả năng trong tiến công ngoại giao: 1). Nếu Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom và các hành động chiến tranh khác thì có thể nói chuyện; 2). Nếu Mỹ ngoan cố không chịu ngừng ném bom thì sẽ lộ rõ bộ mặt hiếu chiến và những thủ đoạn hoà bình giả hiệu trước dư luận thế giới trong khi Việt Nam có cơ hội nêu cao ngọn cờ độc lập, hoà bình và do đó cuộc đấu tranh ngoại giao sẽ giành được thắng lợi về chính trị. Trong bất cứ trường hợp nào cũng phải giữ vững thế chủ động tiến công.
Hội nghị thảo luận về sự khác nhau trong đường lối đấu tranh ngoại giao của Việt Nam và một số nước XHCN, khẳng định tính độc lập, tự chủ trong việc thực hiện đường lối của mình và quyết tâm đóng góp sức mình cho sự thống nhất trong phe xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 có giá trị như là một bản cương lĩnh về đấu tranh ngoại giao của Đảng LĐVN trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Tinh thần cơ bản của Hội nghị được thể hiện trong Nghị quyết là đường lối độc lập, tự chủ và sự chủ động, tích cực tiến công về ngoại giao. Lần đầu tiên trong một văn kiện chính thức, Đảng LĐVN coi đấu tranh ngoại giao là một mặt trận. Điều đó không chỉ được thể hiện ở câu chữ mà còn ở từng nội dung của đường lối, chủ trương, phương châm, nhiệm vụ và những biện pháp thể hiện trong Nghị quyết của Hội nghị. Vì vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 được coi là hội nghị mở đầu mặt trận ngoại giao chống Mỹ, cứu nước.
Đến cuối 1967, cách mạng miền Nam đã giành được những thắng lợi quan trọng cả về chính trị, quân sự. Quân và dân miền Nam vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ thế chủ động trên chiến trường. Về phía Mỹ, đưa “chiến tranh cục bộ” trong phạm vi miền Nam đến đỉnh cao, song  đã bị tổn thất nặng nề về quân sự và chính trị, chiến lược và chiến thuật. Trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt có liên quan và theo dõi sát diễn biến thực tế chiến trường, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam nhận thấy một tình thế mới có lợi cho cách mạng miền Nam, bất lợi cho đối phương đã xuất hiện. Tháng 12.1967, Bộ Chính trị họp và quyết định mở cuộc Tổng công kích và tổng khởi nghĩa nhằm giáng một đòn sấm sét vào ý chí xâm lược của Mỹ. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã được Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp vào tháng 1.1968 thông qua và trở thành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đây là Nghị quyết cổ vũ tinh thần và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Nhận định về những chuyển biến của tình hình từ giữa năm 1965 đến đầu năm 1968, Hội nghị cho rằng: Thất bại một bước rất cơ bản trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đối phương đang lúng túng, bị động về chiến lược, chiến thuật, phải chuyển sang thực hiện chiến lược hai gọng kìm, nhằm "vừa tìm diệt, vừa bình định", để đề phòng ta đánh lớn ngay trong mùa mưa năm 1967, nhưng đó là “sự chuyển hướng từ thế phản công chiến lược sang thế bị động phòng ngự về chiến lược; đó cũng là một bước thụt lùi về chiến lược của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Nam”[36], thể hiện một thất bại lớn về chiến lược của Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đưa những cố gắng chiến tranh ở Việt Nam lên mức cao nhất, Mỹ vẫn rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược, còn nhân dân Việt Nam đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, “đã thắng địch cả về chiến lược lẫn chiến thuật và thế lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử chiến tranh giải phóng của ta. Chúng ta đang nắm quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường”[37]. Về tổng thể, so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng, còn đối với Mỹ, một thất bại về quân sự đối với Mỹ lúc này sẽ có tác động mạnh đến tình hình chính trị nước Mỹ, vì đây là năm bầu cử Tổng thống Mỹ (11.1968). Các phe phái ở Mỹ đang bận rộn dồn sức vận động cho ứng cử viên Tổng thống của đảng mình. Ra tranh cử chức Tổng thống Mỹ lần này, các ứng cử viên đều lấy việc “chấm dứt chiến tranh Việt Nam” làm một trong những vấn đề chính để vận động tranh cử.
Trên cơ sở phân tích toàn diện tình hình, Trung ương Đảng quyết định “đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”[38], nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược: 1). Tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thể triển khai được âm mưu chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam; 2). Đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.
Hội nghị cũng lường định sự phức tạp, khốc liệt của cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa sắp tới: Đó sẽ là “một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp”[39], “là một quá trình ta liên tục tiến công, truy kích, tiêu diệt và đánh đổ địch cả về quân sự và chính trị”[40]. Đây là một đòn giáng mạnh vào lực lượng quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, vì thế, chắc chắn đối phương sẽ phản kích ác liệt để giành giật và chiếm lại những vị trí chiến lược quan trọng đã mất. Do vậy, trong quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa, phải “kết hợp tiến công quân sự với tiến công chính trị, thực hành ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược và phối hợp với tiến công ngoại giao”[41], trong đó, cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang trên các chiến trường chính và sự nổi dậy của nhân dân ở các thành thị lớn là hai mũi tiến công chính kết hợp chặt chẽ với nhau, trợ lực lẫn nhau và thúc đẩy toàn bộ cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa khắp cả ba vùng thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi. Hội nghị cũng lưu ý rằng, “cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các thành thị lớn là mũi nhọn thọc vào yết hầu của địch, có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ chiến trường và toàn cuộc chiến tranh”. Vì vậy, tất cả những cuộc công kích và khởi nghĩa ở các vùng khác trên chiến trường miền Nam đều có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với các thành thị và trợ lực đầy đủ cho các cuộc công kích và khởi nghĩa ở các thành thị lớn. Cần nắm vững nguyên tắc cơ bản là “tập trung lực lượng quân sự và lực lượng chính trị đến mức cao nhất, một cách hợp lý nhất, tiến công mãnh liệt vào những hướng chiến lược chính; kiên quyết tiến công, liên tục tiến công, nhằm đúng vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định, giành cho kỳ được thắng lợi ở những nơi quyết định, phải tuyệt đối giữ cho được nhân tố bất ngờ; phải biết giành thắng lợi từng giờ từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả và bẻ gãy các cuộc phản kích của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất”[42]. Hội nghị đã dự kiến 3 khả năng phát triển của tình hình:
Thứ nhất,quân dân miền Nam giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa của ta cuối cùng thành công ở các đô thị lớn. Đối phương bị thất bại đến mức không còn gượng dậy được, ý chí xâm lược bị đè bẹp, phải chịu thua, buộc phải thương lượng và phải kết thúc chiến tranh theo những mục tiêu và yêu cầu của VNDCCH.
Thứ hai, tuy quân dân miền Nam giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng Mỹ tập trung và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại và giữ được những vị trí quan trọng, ổn định được các thành thị lớn, nhất là Sài Gòn - Gia Định, dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục chiến đấu.
Thứ ba, Mỹ động viên và tăng thêm nhiều lực lượng, mở rộng “chiến tranh cục bộ” ra miền Bắc, sang Campuchia và Lào, hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua.
Trong ba khả năng đó, Hội nghị nhấn mạnh đến khả năng thứ nhất, cần tập trung mọi nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng để giành thắng lợi theo khả năng này; đồng thời, sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai và cảnh giác, đề phòng để chủ động đối phó với khả năng thứ ba, mặc dù khả năng này ít xảy ra.
Nhận định đúng tình hình, đưa ra chủ trương chiến lược chính xác, táo bạo, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng LĐVN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã diễn ra và giành thắng lợi hết sức to lớn, góp phần quyết định làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã gây chấn động, làm bàng hoàng nước Mỹ, tạo ra bước ngoặt lớn buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, xuống thang chiến tranh.
Choáng váng trước đòn tiến công chiến lược của quân và dân miền Nam, chính quyền Mỹ hiểu ra rằng không thể thắng nổi một dân tộc đầy bản lĩnh, gan góc chiến đấu vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, bước vào Nhà Trắng từ tháng 1.1969, Níchxơn đề ra học thuyết và chiến lược quân sự toàn cầu với răn đe thực tế thay thế cho chiến lược phản ứng linh hoạt đã bị phá sản. Đối với cuộc chiến ở Việt Nam, Mỹ chuyển từ “phi Mỹ hóa” chiến tranh sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” mà thực chất là “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam” với sự chi viện hỏa lực, hậu cần của Mỹ. Từ năm 1969, Mỹ tiến hành bước phiêu lưu quân sự mới, mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia, biến Đông Dương thành một chiến trường. Bên cạnh những bước phiêu lưu quân sự mới, Mỹ tiến hành những chiến dịch ngoại giao thoả hiệp với các nước lớn là Trung Quốc, Liên Xô, gây sức ép và cô lập cách mạng Việt Nam. Đứng trước những thử thách nghiêm trọng của tình hình, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hai miền Nam - Bắc đoàn kết một lòng, triệu người như một, kiên quyết tiến hành cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quân và dân miền Nam đẩy mạnh phản công và tiến công, từng bước khôi phục vùng giải phóng, khôi phục phong trào cả ở ba vùng chiến lược, sát cánh cùng quân, dân Lào và quân, dân Campuchia đánh thắng các bước phiêu lưu quân sự mới của Mỹ. Trên miền Bắc, sau khi Mỹ buộc phải ngừng ném bom đánh phá, quân, dân miền Bắc đã nỗ lực cao độ, phục hồi và đẩy mạnh sản xuất, củng cố miền Bắc về mọi mặt, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, chi viện mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam và các nước Đông Dương.
Trong những năm 1969 - 1972, cách mạng miền Nam đã đạt được những thắng lợi to lớn, toàn diện (Cánh Đồng Chum, Đường 9 - Nam Lào, Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn chiến trường miền Nam…). Trên miền Bắc, mặc dù Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng không quân và hải quân, đánh phá miền Bắc ở mức độ khốc liệt, kể cả đánh thẳng vào Thủ đô Hà Nội và phong tỏa cảng Hải Phòng nhưng những cố gắng cao độ của không quân, hải quân Mỹ, đặc biệt là cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng, đã bị đập tan. Những thắng lợi đó và diễn tiến tình hình thế giới, các chuyển động trong qj quốc tế đã khiến Chính phủ Mỹ thay đổi chiến lược, ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27.1.1973), công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chấm dứt mọi sự dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam; chấp nhận lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam vẫn ở nguyên tại miền Nam... Với những nội dung chứa đựng trong đó, Hiệp định Pari là cột mốc đánh dấu bước ngoặt căn bản cho cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn phát triển mới.
Sau ngày Hiệp định Pari được kí kết, những tháng đầu của năm 1973, quân đội Sài Gòn đẩy mạnh tiến công lấn chiếm vùng giải phóng. Trong khi đó, ở nhiều địa phương và một số đơn vị, do tin tưởng vào khả năng hòa bình, không lường hết âm mưu và thủ đoạn của địch, nên lơ là mất cảnh giác. Trên thực tế, đối phương đã tiến công lấn chiếm được nhiều địa bàn, chiếm giữ được một số trục lộ giao thông huyết mạch có ý nghĩa chiến lược. Để đáp ứng những yêu cầu mới của tình hình, tháng 10.1973, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 được triệu tập. Tại Hội nghị quan trọng này, các vấn đề lớn, có tính cấp thiết đã được đặt ra nhằm đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiếp tục phát triển.
Đánh giá về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hội nghị khẳng định, cuộc kháng chiến đã “trở thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc  mang tính chất thời đại rất sâu sắc”[43]. Hội nghị cũng chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới - một giai đoạn cách mạng rất vẻ vang của dân tộc, “hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”[44].
Hội nghị chỉ rõ: “chính sách cơ bản của đế quốc Mỹ ở Việt Nam vẫn là thực hiện học thuyết Níchxơn, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta”[45]. Để thực hiện mục tiêu đó, Mỹ tiếp tục hỗ trợ chính quyền Sài Gòn tăng cường lực lượng, dùng bạo lực phản cách mạng để duy trì ách thống trị. Đồng thời, Mỹ sẽ triệt để lợi dụng xu thế hòa hoãn trên thế giới, lợi dụng mâu thuẫn trong phe xã hội chủ nghĩa, sử dụng mọi thủ đoạn ngoại giao, kinh tế và chính sách cân bằng lực lượng giữa các nước lớn để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở phân tích âm mưu, hành động của địch, đánh giá lực lượng so sánh, lường định diễn biến của tình hình chiến trường trong nước và trên thế giới, Hội nghị khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phả nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”[46].
Về so sánh lực lượng, Hội nghị phân tích:
Về phía địch, chính quyền Sài Gòn có những mặt yếu rất cơ bản về chính trị mà chỗ mạnh tạm thời về quân sự không thể bù đắp được. Quá trình phát triển của tình hình địch ở miền Nam là quá trình đi xuống. Mỹ và chính quyền Sài Gòn không thể khắc phục được những mâu thuẫn đang ngày càng sâu sắc và trầm trọng.
Về phía cách mạng miền Nam, tuy còn một vài điểm yếu (lực lượng vũ trang phát triển chưa cân đối giữa ba thứ quân, các mũi tấn công chính trị, quân sự, binh vận ở nhiều nơi chưa đủ mạnh, hữu khuynh trong chủ trương đối phó trên những bước chuyển lớn của tình hình…), nhưng thế và lực của cách mạng miền Nam hiện nay mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào từ năm 1954 đến nay trên cả phương diện chính trị lẫn quân sự[47].
Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao; nhiệm vụ của miền Bắc là tiếp tục làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với cách mạng miền Nam và tích cực đấu tranh để Hiệp định Paris về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh. Hội nghị tiếp tục nhấn mạnh cần tăng cường đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương; đồng thời, tăng cường đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và đoàn kết các phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
Một cách tổng quát, Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương (khoá III) là Hội nghị quan trọng nhất kể từ sau Hiệp định Paris. Trên cơ sở tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau 18 năm, một mặt, Hội nghị rút ra những kinh nghiệm chủ yếu cho cách mạng miền Nam; mặt khác, đề ra chủ trương, biện pháp cơ bản để đưa cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam tiến lên giai đoạn mới - giai đoạn cuối cùng của sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 21, các cơ quan chiến lược tập trung giúp Quân ủy Trung ương chuẩn bị chủ trương và những giải pháp lớn về quân sự, mà trọng tâm là xây dựng Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Trong vòng một năm (từ tháng 4.1973 đến tháng 5.1974), kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được soạn thảo, chỉnh lý, bổ sung qua nhiều lần. Đó là cả một quá trình nắm bắt kịp thời mọi diễn biến chiến trường, trong nước và trên thế giới trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới cuộc chiến tranh; là quá trình bàn bạc, tính toán, cân nhắc, chọn lựa các giải pháp giữa cơ quan chỉ đạo chiến lược với lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường. Trong suốt quá trình đó, nhiều vấn đề lớn đặt ra yêu cầu phải được phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện: “Làm thế nào để tạo được thời cơ? Cần làm gì để chớp thời cơ không được để lỡ? Hướng chiến lược là đâu? Đánh như thế nào để tiêu diệt được chiến đoàn và sư đoàn quân ngụy?” Khả năng can thiệp của Mỹ nếu ta đánh lớn?[48]... Sau nhiều cuộc trao đổi, thảo luận, bản dự thảo kế hoạch chiến lược với tên gọi Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam sau vài ba năm làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam, mang số 133/TG1, hoàn thành vào ngày 16.5.1974.
Theo dõi sát sao tình hình chiến trường, Bộ Chính trị tiếp tục ra những quyết định quan trọng về giải phóng miền Nam. Tháng 9.1974, Hội nghị Bộ Chính trị họp và nhận định: “Nhìn chung, ta đã chuyển lên tấn công, ngày càng giành được quyền chủ động” thế và lực của ta phát triển vững chắc, mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đã xuất hiện tấn công và nổi dậy từng phần ở nông thôn; ta đang ở thế thắng, thế đi lên[49]. Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, “phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975 - 1976”[50] với kế hoạch chiến lược gồm hai bước: Bước 1 (1975): Tranh thủ yếu tố bất ngờ, tập trung lực lượng, phương tiện, vũ khí đánh địch trên phạm vi lớn toàn miền Nam; bước 2 (1976): Thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Đây là “một quyết định rất dũng cảm, có thể nói là táo bạo... là kết quả của trí tuệ tập thể của Bộ Chính trị, là kết quả của những suy nghĩ đã nung nấu từ lâu, của sự cân nhắc chín chắn xuất phát từ kinh nghiệm được tích lũy qua mấy mươi năm chiến đấu, xuất phát từ thực tiễn cách mạng trên chiến trường, từ lực lượng so sánh trong nước và trên thế giới”[51].
Nắm bắt và thực hiện chủ trương chiến lược của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10.1974, quân và dân trên cả hai miền Nam Bắc bước vào giai đoạn chuẩn bị mới với nhịp độ khẩn trương hơn và quy mô rộng lớn hơn, nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình chiến trường miền Nam đang diễn biến rất mau lẹ.
Sau chiến thắng Phước Long - chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước suy sụp mới của quân đội Sài Gòn, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 2 (họp từ 18-12-1974) thông qua kế hoạch kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong hai năm 1975, 1976. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, Bộ Chính trị còn dự kiến phương án nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh lập tức triển khai kế hoạch chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1975. Bám sát diễn biến và dự đoán chính xác xu thế chuyển động của tình hình chiến trường, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 18-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975. Tiếp đó, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 25-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975 và Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4 -1975. Những quyết định đó dựa trên thế tiến công như vũ bão và thắng lợi dồn dập từ sau chiến thắng Buôn Ma Thuột (10-3-1975), chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên và Khu V, giải phóng ven biển miền Trung. Quân đội Sài Gòn tan rã từng mảng, hoang mang và hỗn loạn, lâm vào thế thất bại hoàn toàn không thể cứu vãn nổi. Ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn - Gia Định bắt đầu và kết thúc thắng lợi vào trưa ngày 30-4-1975. Ngày 1-5-1975, toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long và các hải đảo (trừ Hoàng Sa) được giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 21 năm của nhân dân Việt Nam đã toàn thắng.
    *   
*               *
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả hợp thành của những nhân tố cơ bản tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, trong đó, đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn. Quá trình Đảng LĐVN đề ra và thực hiện đường lối chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến đều xuất phát từ mục tiêu chiến lược nhất quán là vì nền độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quá trình đó luôn chịu sự tác động của những nhân tố trong nước, trong khu vực và trên trường quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trung thành với Tổ quốc, với nhân dân; kiên định lập trường cách mạng, trên cơ sở lường định đúng chuyển biến của tình hình, đánh giá đúng âm mưu của đối phương cũng như đánh giá đúng tương quan lực lượng so sánh đôi bên, Đảng LĐVN đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân, toàn quân trên cả hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ những đường hướng cơ bản đầu tiên, đường lối kháng chiến của Đảng không ngừng được bổ sung, hoàn chỉnh, hình thành giải pháp tối ưu, là nhân tố quyết định sự phát triển của cuộc kháng chiến, đánh thắng các chiến lược chiến tranh của kẻ thù xâm lược. Một cách khái quát, đó là thắng lợi của chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách mạng dân tọc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng trong mối tương quan biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược đó; là thắng lợi của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nghĩa vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, của nghệ thuật chỉ đạo chiến lược tài tình của bộ máy lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Chuyên luận là một phần nội dung của chương 38, sách "Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, 1954-1975", Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013.


Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ




[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22 (1961), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 153.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22 (1961), Sđd, tr. 159.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22 (1961), Sđd, tr. 159.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22 (1961), Sđd, tr. 158.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 224.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23 (1962), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 143.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23 (1962), Sđd, tr. 144.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23 (1962), Sđd, tr. 145.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23 (1962), Sđd, tr. 812.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Sđd, tr. 813.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Sđd, tr. 145.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Sđd, tr. 820.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Sđd, tr. 822.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Sđd, tr. 819.
[15] Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 69.
[16] Từ những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, mâu thuẫn giữa Liên Xô, Trung Quốc bộc lộ công khai, ngày càng gay gắt, làm nảy sinh “chủ nghĩa biệt phái” trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tình trạng bè phái đó “biểu hiện ở chỗ khi xảy ra bất đồng ý kiến trong phong trào cộng sản quốc tế, một số người ở một số đảng đã kéo bè kéo cánh để công kích và cô lập đảng anh em và những người mácxít - lêninnít có ý kiến khác mình, gây nên bất hòa nghiêm trọng và tạo ra nguy cơ chia rẽ trong phong trào cộng sản quốc tế; biến sự bất đồng ý kiến giữa các đảng trong phe xã hội chủ nghĩa thành sự xích mích trong quan hệ nhà nước; gây bè phái trong các đảng anh em, vận động quần chúng để cô lập đảng anh em và nước anh em kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin”. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam: Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta (tháng 12-1963). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24 (1963), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.773-774.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Sđd, tr. 815.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Sđd, tr. 823.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Sđd, tr. 827.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Sđd, tr. 836.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Sđd, tr. 860.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Sđd, tr. 861.
[23] Chủ trương và nhiệm vụ quốc tế mà Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra thể hiện sự độc lập, tự chủ và bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng ta trước những nảy sinh phức tạp trong quan hệ quốc tế. Nhà sử học Ilya V. Gaiduk trong cuốn sách Liên bang Xô viết và chiến tranh Việt Nam, đã viết: “Khi cuộc ganh đua giữa Mátxcơva và Bắc Kinh trở nên quyết liệt, các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã có đủ khả năng khai thác sự mâu thuẫn giữa hai ủng hộ viên Cộng sản hùng mạnh và mong muốn giành được một chỗ đứng ở Đông Dương của họ. Khôn khéo vận dụng giữa Trung Quốc và Liên Xô, Hà Nội đã giữ được vị trí độc lập trong các mục tiêu chính trị, trong khi càng ngày càng phụ thuộc hơn vào các nguồn viện trợ vật chất của các đồng minh”. Ilya V. Gaiduk: Liên bang Xô viết và chiến tranh Việt Nam, Ivan R. Dee Publisher Chicago, 1996. Tổng cục V - Bộ Nội vụ sao lục, tháng 1-1998, tr. 72.
[24] Lê Duẩn, Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 185.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr.633.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 634.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 637-638.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 639.
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 108.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 643-644.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 117.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 173.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 174.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sđd, tr. 176.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28 (1967), Sđd, tr. 174, 176.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29 (1968), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 42.
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr. 48-49.
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr. 50.
[39] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr. 51.
[40] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr. 52.
[41] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr. 52.
[42] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr. 54-55.
[43] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34 (1973), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 213.
[44] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Sđd, tr. 226.
[45] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34 (1973), Sđd, tr. 227.
[46] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Sđd, tr. 232.
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Sđd, tr. 229.
[48] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 109.
[49] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35 (1974), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 370
[50] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Sđd, tr. 185.
[51] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Sđd, tr. 235.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!