PGS,TS. Hồ Khang
Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với toàn
bộ sức mạnh vật chất và tinh thần của các quốc gia tham chiến. Hồ Chí Minh
viết: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào
thắng lợi được”[1]. Kẻ thù
luôn dùng chiến tranh tổng lực, muốn chiến thắng trong cuộc chiến tranh, một
vấn đề mang tính quy luật là phải phát huy được sức mạnh mọi mặt của đất nước,
của dân tộc. Chiến tranh mà nhân dân Việt Nam tiến hành là chiến tranh cách
mạng, chiến tranh nhân dân; muốn phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn
dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của đối phương, phải đánh trên tất cả các
mặt trận:
Quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế cũng như văn hoá và tư tưởng.
Mỗi mặt trận đấu tranh đều có vị trí quan trọng của nó. Vì lẽ đó, đường lối
chiến tranh nhân dân của Đảng CSVN chỉ ra
rằng: Kháng chiến toàn dân phải gắn liền với kháng chiến toàn diện.
Kháng chiến toàn diện là một nội dung cơ
bản, một phương châm chiến lược của đường lối chiến tranh nhân dân của một đất
nước nhỏ yếu, chống lại đối phương lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần, nhằm huy
động mọi khả năng, phát huy mọi sức mạnh, sử dụng, kết hợp mọi hình thức đấu
tranh, liên hiệp với mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, để tạo
nên sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù. Kháng chiến toàn diện là đánh giặc không
chỉ trên mặt trận chủ yếu là quân sự, mà còn là đánh giặc trên tất cả các mặt
trận khác như: Chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Hồ Chí Minh đã từng kêu
gọi: “Mỗi người Việt Nam bất kỳ già trẻ, trai gái, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ
đều cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên một mặt trận: Quân sự, kinh
tế, chính trị, văn hoá”[2].
Mặt trận quân sự
Trong chiến tranh,
mặt trận quân sự phải được coi là mặt trận quan trọng nhất, bởi “quân sự là
việc chủ chốt”, là hình thức đấu tranh đặc trưng của chiến tranh, quyết định
trực tiếp sự thắng, bại của chiến tranh. Trước hết, "phải thắng địch về
quân sự mới giành được thắng lợi cho kháng chiến, cho cách mạng". Chiến
tranh là chính trị được tiếp tục bằng những thủ đoạn khác. Chính trị một khi
không thể tiếp tục tiến lên với những thủ đoạn như cũ được nữa, thì phải dùng
những thủ đoạn bạo lực, dùng chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa
hai bên. Một khi chiến tranh đã xảy ra, nếu không chiến thắng được kẻ thù giai
cấp hay kẻ thù dân tộc về quân sự thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ chính
trị. Đấu tranh trên mặt trận quân sự là một hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai
trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương
- chỗ dựa chủ yếu của đối phương để tiến hành chiến tranh phản cách mạng, duy
trì chính quyền và các tổ chức chính trị phản động. Đi đôi với nhiệm vụ tiêu
diệt lực lượng quân sự của đối phương, đấu tranh trên mặt trận quân sự còn có
nhiệm vụ bảo vệ dân, giữ dân, giành dân, kết hợp với đấu tranh chính trị, làm
chỗ dựa cho quần chúng cách mạng đấu tranh chính trị và nổi dậy giành chính
quyền làm. Chiến tranh càng phát triển quyết liệt, khi đối phương tăng cường vũ
trang xâm lược Việt Nam bằng những lực lượng quân sự ngày càng lớn, thì vai trò
của mặt trận quân sự ngày càng quan trọng, yêu cầu đối với mặt trận quân sự
ngày càng cao. Lúc này, đấu tranh trên mặt trận quân sự phải từ hình thức chiến
tranh du kích tiến lên kết hợp với hình thức chiến tranh chính quy, tiêu hao và
tiêu diệt những lực lượng quân sự ngày càng quan trọng của đối phương, đánh bại
mọi chiến lược quân sự của đối phương, giành thắng lợi có tính chất quyết định
về quân sự, mới có thể đưa cuộc chiến tranh nhân dân đến thắng lợi cuối cùng.
Do đó, Đảng CSVN giương cao khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng”, “các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hoá, đều nhằm mục đích làm
cho quân sự thắng lợi”[3].
Để đảm bảo thắng lợi cho mặt trận quân sự, Đảng CSVN đề
ra các nhiệm vụ: Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị, binh vận, tác chiến với phá hoại, tiêu hao đối phương; triệt để dùng
chiến tranh du kích, kết hợp với đánh lớn; quán triệt tư tưởng chiến lược tiến
công; vừa đánh vừa xây dựng lực lượng làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi
nhất.
Về quân đội chủ lực
cách mạng, Đảng CSVN chủ trương xây dựng một quân đội nhân dân, một quân đội
cách mạng tiến lên chính quy hiện đại. Quân đội đó mang lập trường tư tưởng của
giai cấp công nhân, nắm vững đường lối quân sự của Đảng CSVN, ra sức rèn luyện
chiến thuật, kỹ thuật, luôn luôn nâng cao cảnh giác bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân
dân, tham gia lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, thắt chặt đoàn kết trong
nội bộ và đoàn kết với nhân dân, tuyệt đối chấp hành mọi đường lối chính sách
của Đảng, của Chính phủ, có kỷ luật nghiêm minh, đồng thời, cán bộ thân đội
viên như chân tay, đội viên thân cán bộ như ruột thịt. Quân đội Việt Nam “là
quân đội nhân dân, do nhân dân tổ chức và vì nhân dân mà chiến đấu. Nó có tính
chất: Dân tộc, dân chủ và hiện đại”[4].
Quân đội nhân dân Việt Nam có kỷ luật rất nghiêm, “nhưng là kỷ luật tự giác và
dân chủ. Vừa tác chiến, nó vừa tiến hành công tác chính trị rộng rãi làm cho
trên dưới một lòng, quân dân nhất trí và tinh thần lính địch tan rã”[5].
Bên cạnh chủ trương tập trung lực lượng để xây dựng một
đội quân chủ lực, Đảng CSVN còn hết sức chú trọng tổ chức lực lượng vũ trang
tại chỗ, lực lượng vũ trang trong các địa phương và đặc biệt coi trọng dân quân
du kích, coi đó là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là
“bức tường sắt của Tổ quốc”[6].
Để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân thực sự vững
chắc, đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh cách mạng, đưa kháng chiến đến toàn
thắng, Đảng CSVN xác định phải xây dựng Đảng và công tác chính trị trong quân
đội, tích cực cải thiện sinh hoạt, đào tạo cán bộ, đặc biệt nâng đỡ cán bộ công
nông, giáo dục tư tưởng, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật, đề cao việc học tập
lý luận quân sự, kết hợp với kinh nghiệm thực tế của chiến trường.
Vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
bạo lực cách mạng và trên kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám, trong các cuộc
kháng chiến, Đảng vchủ trương tiến hành kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu
tranh chính trị, kết hợp ở mức độ nhất định công kích quân sự với nổi dậy của
quần chúng, nhưng đấu tranh vũ trang giữ vai trò chủ yếu, quyết định, phối hợp
với việc tác chiến trước mặt đối phương với việc đánh du kích quấy rối phá hoại
sau lưng đối phương, binh vận, tác chiến với phá hoại và các mặt đấu tranh
khác, tiến công đối phương cả ở nông thôn và thành thị...
Đảng xác định chiến lược của chiến tranh nhân dân Việt
Nam là đánh lâu dài, chiến thuật trong bước đầu, khi lực lượng còn đang xây
dựng là tránh những trận quyết chiến để giữ gìn lực lượng, giành quyền chủ
động, tích cực tiến công đối phương, đánh chớp nhoáng, tiêu diệt đối phương,
giải quyết nhanh, giành thắng lợi trong từng trận. Do đó, phải triệt để dùng
chiến tranh du kích chiến, phải phòng ngự theo lối tiến công, phối hợp chặt chẽ
tác chiến của bộ đội địa phương, dân quân du kích với chiến tranh chính quy.
Du kích chiến là hình thức chiến tranh của quần chúng nhân
dân trong một nước có kinh tế lạc hậu đứng dậy chiến đấu chống một đội quân xâm
lược có trang bị và kỹ thuật mạnh hơn. Đối phương mạnh thì tránh, đối phương
yếu thì đánh; khi đánh tiêu hao, khi đánh tiêu diệt, kết hợp đấu tranh vũ trang
với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế; đâu có đối phương ở đó là mặt trận,
không có mặt trận cố định. Tập trung binh lực nhằm chỗ yếu của đối phương mà tấn
công, mà tiêu diệt sinh lực; chủ động, linh hoạt, nhanh chóng, bí mật, đánh
nhanh, giải quyết nhanh trong từng trận. Trong điều kiện tương quan về chiến
lược chưa có lợi, thì cương quyết tập trung binh lực để thực hiện ưu thế trong
chiến đấu ở một địa điểm nhất định, trong một thời gian nhất định; lấy những
chiến thắng ở trong nhiều cuộc chiến đấu nhỏ, góp gió thành bão, tiêu hao dần
lực lượng của đối phương, bồi dưỡng và mở rộng dần lực lượng.
Trong các cuộc kháng chiến, Đảng CSVN đã phát động được
chiến tranh du kích rộng khắp ở các vùng tạm thời bị đối phương chiếm đóng.
Toàn dân đã được vũ trang đứng dậy chiến đấu với hình thức du kích phân tán,
nhưng theo một đường lối thống nhất, theo phương châm chỉ đạo thống nhất. Đảng CSVN
chủ trương tổ chức những làng chiến đấu, làm cho “những làng ấy liên lạc với
nhau trong từng vùng, thành những hệ thống kháng chiến, khác nào như những lưới
bổ vây quân địch”[7]. Có thể
nói rằng, các cuộc kháng chiến trường kỳ của Việt Nam là các cuộc chiến tranh
du kích trường kỳ.
Để mặt
trận quân sự giành được thắng lợi, Đảng CSVN xác định phải xây dựng căn cứ địa
vững chắc cả ở miền rừng núi và đồng bằng. Muốn căn cứ địa được vững chắc, phải
tăng cường việc vận động quần chúng, đào tạo cán bộ địa phương. Căn cứ địa phải
là nơi có nhân dân tích cực, tổ chức rộng rãi, sẵn sàng ủng hộ bộ đội về mọi
mặt; có một đội quân chủ lực sẵn sàng xung phong cản đối phương, giữ gìn căn
cứ, bảo vệ cho các cơ quan lãnh đạo và nhân dân; có địa hình hiểm trở, dễ cho
phòng ngự. Tuy nhiên, trong đó, quần chúng nhân dân tốt và quân chủ lực là hai
điều kiện cần hơn hết. Bởi vì, “không có rừng núi mà có đội quân chủ lực tinh
thần và có quần chúng đông đảo, giác ngộ, thì đó sẽ là rừng người, núi người
che chở cho ta”[8].
Một
nội dung quan trọng trong đấu tranh trên mặt trận quân sự của Đảng CSVN là quán
triệt tư tưởng chiến lược tiến công. Đảng CSVN coi tư tưởng tiến công là cơ sở
cho chiến lược cách mạng, chiến lược quân sự, của phương pháp cách mạng và
phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân ở Việt Nam. Chiến lược tiến công
tổng hợp trong chiến tranh nhân dân của Đảng CSVN xuất phát từ quan điểm đánh
giá đúng so sánh lực lượng giữa đôi bên, phù hợp với tình hình so sánh lực
lượng giữa cách mạng và phản cách mạng trong thế chiến lược tiến công của cách
mạng quốc tế; đồng thời, nó phải quán triệt quan điểm chỉ đạo cách mạng luôn
luôn phải giữ vững quyền chủ động, vì luôn phát huy mạnh mẽ quyền chủ động
chính là sự biểu hiện cao nhất của tư tưởng tiến công. Hồ Chí Minh viết: “Giữ
quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù, muốn đánh nó ở chỗ nào thì đưa
nó đến đó mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được. Nếu nó mạnh
quá đánh không có lợi thì mình lùi, mình tự ý lùi cũng là giữ quyền chủ động,
giữ được chủ động thì thế nào cũng thắng, không thắng to thì thắng nhỏ”[9].
Khả năng tiến công chủ động còn dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân rộng lớn
với nhiều lực lượng khác nhau, một thế trận, một nghệ thuật tiến công tổng hợp
cả về quân sự, chính trị, ngoại giao, khởi nghĩa và chiến tranh, tiêu diệt và
làm chủ thế đánh đối phương trên cả ba vùng chiến lược trong một cuộc chiến
tranh lâu dài, càng đánh, càng mạnh.
Mặt trận chính trị
Trong các cuộc kháng chiến bảo vệ và giải phóng Tổ quốc,
chính trị là chỗ mạnh căn bản của cách mạng và đó cũng là chỗ yếu căn bản của
đối phương; và vì làm cách mạng, mọi việc phải lấy chính trị làm gốc. Cách mạng
và chiến tranh cách mạng là chính nghĩa, nhân dân Việt Nam có ưu thế tuyệt đối
về chính trị so với đối phương. Về phía đối phương, mặc dù ở thế yếu về chính
trị, phải dùng chiến tranh phản cách mạng, lấy quân sự làm thủ đoạn chủ yếu để
chống lại nhân dân Việt Nam, nhưng trong chiến tranh, đối phương vẫn tiếp tục
dùng thủ đoạn chính trị để che mắt nhân dân Việt Nam, che mắt nhân dân thế
giới, hòng khắc phục chỗ yếu của mình và làm giảm chỗ mạnh của nhân dân Việt
Nam về chính trị, nhất là trong điều kiện đối phương thi hành chủ nghĩa thực
dân kiểu mới. Có đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị, mới kịp thời đấu
tranh với mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, lừa gạt và chia rẽ của đối
phương, mở rộng và củng cố được khối đại đoàn kết chiến đấu của toàn dân, mới
làm cho hàng ngũ của đối phương ngày càng phân hoá, làm cho bọn hiếu chiến và
xâm lược ngày càng bị cô lập và suy yếu về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự và các mặt đấu tranh khác. Đẩy mạnh
đấu tranh trên mặt trận chính trị, có thể làm thất bại những âm mưu chính trị
của đối phương, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam giành quyền làm chủ ở cơ sở
với mức độ khác nhau và trong chừng mực nhất định, có thể chặn được bàn tay tội
ác đối với nhân dân Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam tiến hành chiến tranh nhằm để bảo vệ
độc lập và thống nhất đất nước, chống lại chiến tranh xâm lược từ bên ngoài.
Chiến tranh chính nghĩa được sự đồng tình và tham gia của nhân dân cả nước,
được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Trái lại, những kẻ
đi xâm lược nước khác, gây chiến tranh phi nghĩa, nên đối phương bị nhân dân
tiến bộ trên thế giới phản đối. Vì thế, đi đôi với đấu tranh trên mặt trận
chính trị ở trong nước, còn phải tiến hành đấu tranh chính trị trên trường quốc
tế, nhằm làm cho nhân dân thế giới, kể cả nhân dân của nước đi xâm lược, ngày
càng hiểu rõ lập trường chính nghĩa và những thắng lợi của nhân dân Việt Nam,
vạch trần mọi sự che mắt của đối phương.
Trên mặt trận chính trị, phải ra sức phát huy thế mạnh
của mình, để làm cho mình nhiều bạn bè và ít kẻ thù hơn bao giờ hết. Do vậy,
đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng CSVN chỉ rõ: Trên mặt trận chính trị,
phải tăng cường đoàn kết toàn dân, xây dựng và mở rộng khối liên minh công
nông, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng CSVN, củng cố chính quyền, củng cố bộ máy
lãnh đạo và chỉ đạo kháng chiến, thống nhất quân, dân, chính toàn quốc; đồng
thời, tăng cường đoàn kết quốc tế, xây dựng liên minh chiến lược giữa ba nước
Đông Dương và mặt trận nhân dân thế giới để giúp đỡ nhau và cô lập kẻ thù.
Trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam có đặc điểm là luôn phải đứng trước những kẻ
thù lớn mạnh và nhiều khi phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc,
Đảng CSVN chủ trương đấu tranh trên mặt trận chính trị phải trên cơ sở giữ vững
nguyên tắc, nhưng vận dụng một cách mềm dẻo, khôn khéo nhiều sách lược khác
nhau để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá, cô lập đối phương
đến cao độ, để làm suy yếu vị trí và thế lực của đối phương, tạo điều kiện đưa
cách mạng tiến lên.
Về tăng cường đoàn kết toàn dân, Đảng CSVN chủ trương:
Mỗi một đảng viên và toàn cả đoàn thể phải đem tất cả tinh thần, lực lượng để
đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào một mục đích đánh đuổi thực dân, đế
quốc xâm lược, làm cho đất nước thống nhất, độc lập, “mọi hành động của đoàn
thể phải nhằm vào mục đích thống nhất dân, được lòng dân, vì dân”[10],
“phải nghiên cứu tất cả những biện pháp để thực hiện triệt để chính sách đại
đoàn kết”[11]. Đoàn
kết toàn thể dân tộc phải chú trọng đoàn kết với các đảng phái khác, phải bằng
những hành động thiết thực để chỉ cho các đảng phái thấy rằng, “chúng ta đặt
quyền lợi dân tộc trên quyền lợi đảng phái, chúng ta thành thật đoàn kết với họ
trong cuộc tranh thủ độc lập, thống nhất cho nước nhà”[12].
Muốn
hoàn thành những nhiệm vụ của kháng chiến, Đảng CSVN còn xác định không chỉ
phải đoàn kết toàn dân, mà còn phải đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảng cần
phải mạnh và thống nhất, “không có một Đảng mạnh và thống nhất, không thể đương
đầu với tình thế hiện tại được. Thống nhất, củng cố Đảng, phát triển Đảng thành
một Đảng quần chúng có đủ oai quyền đầy đủ năng lực lãnh đạo là điều kiện cốt
yếu để kháng chiến và kiến quốc”[13].
Nêu
cao khẩu hiệu “đoàn kết chiến đấu”, coi “đoàn kết chiến đấu, luôn luôn đoàn kết
và chiến đấu bất cứ là hình thức nào, đó là điều kiện sống còn của dân tộc Việt
Nam chúng ta”[14], trong
quá trình lãnh đạo kháng chiến, Đảng CSVN luôn luôn chú trọng đến công tác dân
vận (vận động công nhân, vận động nông dân, củng cố các đoàn thể, vận động giáo
giới...) và công tác phát động thi đua ái quốc... Đảng CSVN chủ trương phải lợi
dụng tất cả các hoàn cảnh thuận tiện công khai, các tổ chức công khai để lôi
kéo tất cả công nhân, trí thức, thanh niên, phụ nữ ở các sở, các hãng, ngoài
chợ... vào cuộc đấu tranh hằng ngày ở các thành phố và các vùng của giặc kiểm
soát. “Phải đưa kế hoạch hoạt động cụ thể, làm thế nào tất cả mọi người, dầu ở
địa vị nào, dầu ở trong trường hợp nào cũng có thể kháng chiến và ủng hộ kháng
chiến bằng hình thức này hoặc hình thức khác”[15].
Đảng CSVN đồng thời chủ trương đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận nhằm đánh vào
tinh thần của binh lính đối phương, “làm cho địch rối loạn, đánh vào cân não
địch”[16].
Dưới khẩu hiệu "công nông binh liên hiệp", đã thường xuyên đẩy mạnh
công tác tuyên truyền vận động, nhằm giác ngộ binh lính, lôi kéo họ về phía
cách mạng. Đây là một mũi tiến công chiến lược trong khởi nghĩa vũ trang và
chiến tranh cách mạng, một vấn đề cơ bản trong công tác vận động cách mạng ở Việt
Nam. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã viết: Đánh mà thắng địch là giỏi. Không đánh
mà thắng địch lại càng giỏi hơn; và không đánh mà thắng địch là nhờ địch vận.
Đó chính là cách đánh “tâm công”, đánh vào lòng địch ở thời Lê Lợi - Nguyễn
Trãi đã được vận dụng và phát triển lên một trình độ cao của phương thức tiến hành
chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.
Một khía cạnh khác của phương diện
chính trị trong chiến tranh toàn diện là xây dựng và phát huy sức mạnh của chế
độ mới, xây dựng hậu phương. Trong suốt các cuộc kháng chiến, Đảng CSVN chủ trương bắt tay ngay vào việc xây dựng nhà nước
cách mạng, nhằm chăm lo mọi mặt, chuẩn bị tốt nhất cho cuộc kháng chiến, thực
hiện “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, từng
bước thực hiện những nhiệm vụ cách mạng ngay trong quá trình kháng chiến.
Mặt trận kinh tế
Đi đôi với chiến tranh trên mặt trận quân sự, chính trị
và ngoại giao, còn phải đấu tranh với đối phương trên mặt trận kinh tế. Giặc
đánh không chỉ trên mặt trận quân sự, chính trị, mà còn đánh về mặt kinh tế,
phong toả, cướp bóc, phá hoại kế hoạch cấp dưỡng, tiếp tế, do vậy, “phải đánh
lại chúng cả về mặt kinh tế. Phải có kế hoạch kinh tế kháng chiến lâu dài. Xây
dựng nền kinh tế kháng chiến, làm cho kinh tế của ta lấn dần kinh tế của địch”[17].
Trong quá trình chiến tranh, phải phát động nhân dân các vùng đối phương kiểm
soát liên tục đấu tranh kinh tế với đối phương, nhằm bảo vệ quyền lợi và cải
thiện đời sống của mình, gây khó khăn cho đối phương cả về kinh tế và chính
trị. Phải liên tục đánh phá các cơ sở kinh tế đối phương, đánh phá kho tàng, cơ
xưởng, đánh phá giao thông vận chuyển, đập tan âm mưu lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh của đối phương, gây khó khăn cho đối phương trong việc bảo đảm vật
chất. Phải phối hợp chặt chẽ với đấu tranh trên các mặt trận quân sự và chính
trị mà làm cho nền kinh tế đối phương bị rối loạn và ngày càng suy sụp, làm cho
ngân sách chiến tranh của đối phương ngày càng tăng, nạn lạm phát ngày càng
lớn, đồng bạc ngày càng sụt giá, do đó mà gây cho đối phương nhiều khó khăn về
quân sự và chính trị trên chiến trường và ngay trong nước. Như vậy, kháng chiến
toàn diện trên mặt trận kinh tế bao gồm hai mặt: Phải làm cho kinh tế kháng
chiến không ngừng lớn mạnh và làm cho kinh tế đối phương không ngừng suy yếu.
Có thể hiểu: Kháng chiến về mặt kinh tế có hai mặt tích cực và tiêu cực. Trường
Chinh viết: “Tiêu cực là phá hoại kinh tế của địch; tích cực là xây dựng kinh
tế của ta”[18]. Có nghĩa
là phải làm cho kinh tế kháng chiến không ngừng lớn mạnh, làm cho kinh tế của
đối phương không ngừng suy yếu, mới có thể phối hợp đắc lực với các mặt trận đấu
tranh khác để giành thắng lợi. Trong mọi trường hợp, đều phải thực hiện vừa
chiến đấu, vừa xây dựng, vừa tiến hành chiến tranh, vừa đẩy mạnh sản xuất.
Trong chiến tranh, cùng với sự phát triển thắng lợi của chiến trường, phải ra
sức mở rộng và củng cố hậu phương về mọi mặt, trong đó cần hết sức chú trọng
đẩy mạnh sản xuất, xây dựng và phát triển nền kinh tế kháng chiến. Mặt khác,
kháng chiến trên mặt trận kinh tế còn là tích cực phá hoại kinh tế của địch, không để cho chúng thực hiện âm mưu “lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh”. Cần lưu ý một điều rằng, đi đôi với những
thủ đoạn quân sự và chính trị, đối phương cũng dùng rất nhiều thủ đoạn tàn khốc
và xảo quyệt để đánh phá kinh tế kháng chiến, hòng làm cho kháng chiến không có
đủ lực lượng kinh tế để đánh lâu dài. Đối phương tiến hành chiến tranh lúa gạo,
chiến tranh hoá học, chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân, đánh phá
giao thông, cơ xưởng, đê điều, bắn giết trâu bò, bao vây kinh tế… Phải đập tan
mọi thủ đoạn của đối phương đánh phá, bảo vệ được đời sống nhân dân để tiến
hành chiến tranh, càng đánh càng mạnh.
Đảng CSVN xác định, muốn toàn dân hăng hái kháng chiến
thì phải cải thiện đời sống cho nhân dân, phải chăm lo nền kinh tế. Bởi vì, dân
phải ăn no mới có sức khoẻ để đánh giặc, “thực túc thì binh cường” và nếu để
dân khổ quá thì cũng có thể vì ít giác ngộ mà sẽ bị giặc lừa phỉnh. Kháng chiến
trên mặt trận kinh tế chính là nỗ lực cải thiện đời sống nhân dân, bồi dưỡng
sức dân, nhằm động viên cao nhất tinh thần kháng chiến của quân và dân; là phát
triển và bảo vệ nền kinh tế đất nước, nhằm đáp ứng nhu cầu kháng chiến và kiến
quốc.
Tóm lại, trên mặt trận kinh tế, Đảng CSVN chủ trương xây
dựng nền kinh tế kháng chiến và phá hoại kinh tế của đối phương. Xây dựng nền
kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, kiến quốc
để kháng chiến, tự cung, tự cấp về mọi mặt. Trong đó, Đảng CSVN chú trọng nhất
là phát triển nông nghiệp, vì Việt Nam vốn sống bằng nghề nông, hầu hết các nhu
cầu của nhân dân Việt Nam là do nông nghiệp cung cấp và phát triển nông nghiệp
cũng là chính sách động viên cao nhất sức dân vào kháng chiến. Có thể khẳng
định rằng, kháng chiến về mặt kinh tế theo chủ trương của Đảng CSVN chính là
mọi hoạt động kinh tế trong kháng chiến đều phải đảm bảo cho mặt trận, cho bộ
đội ăn no đánh thắng.
Mặt trận văn hoá - tư tưởng
Kháng chiến về quân sự, chính trị, kinh tế chưa đủ gọi là
toàn diện kháng chiến, “phải kháng chiến về mặt văn hoá nữa. Văn hoá cũng là
một mặt trận đấu tranh của nhân dân ta”[19].
Trong kháng chiến toàn diện, đấu tranh trên mặt trận văn
hoá - tư tưởng là rất quan trọng. Nó phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự,
chính trị và các mặt đấu tranh khác để tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần
và vật chất to lớn cho chiến tranh nhân dân. hoạt động văn hoá, tư tưởng là một
vũ khí hết sức lợi hại trong cuộc đấu tranh toàn diện giữa cách mạng và đối phương. Có tích cực đẩy mạnh hoạt động
trên mặt trận văn hoá, tư tưởng, mới phát triển được ảnh hưởng của cách mạng,
truyền bá được tư tưởng cách mạng, xây dựng được tình cảm cách mạng một cách
sâu rộng trong quần chúng nhân dân và tác động vào trong hàng ngũ của kẻ thù.
Trong quá trình chiến tranh, đối phương cũng rất chú trọng tấn công ta trên mặt
trận văn hoá, tư tưởng. Bằng các thủ đoạn và tinh vi của chiến tranh tâm lý,
bằng nhiều hình thức hoạt động văn hoá, tư tưởng, đối phương tìm cách reo rắc
tư tưởng cầu an dao động, tâm lý sợ địch, ngại chiến tranh lâu dài, gian khổ,
hòng ru ngủ tinh thần đấu tranh của quần chúng, truỵ lạc hoá và lưu manh hoá
những người không vững vàng trong vùng kiểm soát, đưa họ vào con đường tội lỗi,
phản nước hại dân. Cho nên cuộc đấu tranh với đối phương trên mặt trận văn hoá,
tư tưởng cũng hết sức quyết liệt. Nếu lùi một bước thì đối phương sẽ tiến lên
một bước, nếu bỏ trống trận địa và gây nhiều khó khăn phức tạp. Hồ Chí Minh đã
từng không chỉ một lần nhấn mạnh: “Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so
với những mặt khác cũng không kém phần quan trọng”[20].
Khi kẻ thù giày xéo đất nước, cả dân tộc Việt Nam phải
đứng lên chiến đấu chống kẻ thù. Do vậy, tất cả hoạt động văn hoá lúc này đều
nhằm vào khẩu hiệu: Yêu nước và căm thù giặc. Văn hóa cách mạng phải kích thích
tinh thần chiến đấu, làm sục sôi nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc
nhân dân nổi dậy giành lấy chủ quyền, kháng chiến giữ vững chủ quyền ấy.
Trong chiến tranh, một khi bản sắc văn hoá dân tộc, mà
nội dung cơ bản là chủ nghĩa yêu nước được bảo tồn vững chắc; văn hoá giáo dục
phát triển tích cực, lành mạnh, dân trí ngày một nâng cao; bản lĩnh và trí tuệ
con người Việt Nam ngày càng được khẳng định vững vàng... sẽ tạo nên một sức
mạnh tinh thần vô cùng to lớn và những hoạt động văn hoá - tư tưởng sẽ trở
thành một mũi tấn công lợi hại trong cuộc chiến đấu toàn diện với kẻ thù. Chính
vì vậy, ngoài việc tập trung lãnh đạo chính trị, quân sự, kinh tế, Đảng CSVN còn
chú trọng chăm lo xây dựng, phát triển nền văn hóa, giáo dục và đời sống xã
hội.
Để thực hiện kháng chiến về mặt văn hoá, Đảng CSVN xác
định phải động viên và thống nhất mọi lực lượng văn hóa Việt Nam, hợp lại thành
mặt trận thống nhất văn hóa trên nền tảng dân
tộc, dân chủ (bài trừ mọi chia rẽ và tản mạn trong giới văn hóa). Mặt trận văn
hóa phải là một bộ phận khăng khít của mặt trận dân tộc thống nhất giành độc
lập (văn hóa không thể biệt lập với chính trị). Các nhà văn nghệ, giáo dục, các
bậc trí thức phải tham gia kháng chiến, mở một mặt trận văn hoá, tiến công vào
dinh luỹ văn hoá của đối phương, “Tổ
quốc rất trông đợi nơi các nhà văn hóa, tinh hoa của dân tộc Việt Nam”[21].
Nói về vai trò của những người làm văn hoá trong chiến tranh, Hồ Chí
Minh viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp
phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải cũng như là những chiến sĩ
anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập
cho Tổ quốc”[22], bởi
vì, “trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam
càng như thế”[23]. Trong
tiến trình của các cuộc kháng chiến, mặt trận văn hoá ngày càng được Đảng CSVN chú
trọng phát triển và ngày càng thu nhiều kết quả. Đó là thành tích trong phong
trào vận động đời sống mới, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; chống nạn mù chữ,
phát triển giáo dục, tẩy trừ văn hóa ngu dân, văn hóa xâm lược của thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ; tổ chức vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân; văn nghệ sĩ tham
gia và ủng hộ kháng chiến; tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa cổ truyền
và văn hóa nước ngoài.
Cùng với những đóng
góp hết sức ý nghĩa của mặt trận văn hoá, đường lối kháng chiến toàn diện của
Đảng CSVN đã phát huy được sức mạnh tổng lực của chiến tranh nhân dân để chiến
thắng kẻ xâm lược.
Mặt trận ngoại giao
Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng CSVN đã khẳng
định rõ mặt trận ngoại giao là một mặt trận kháng chiến có vị trí chiến lược
quan trọng, nhằm động viên cao độ mọi lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa ủng hộ, giúp đỡ các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam. Sự
phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh
ngoại giao, cục diện đan xen giữa “đánh” và “đàm” giúp làm chuyển biến cục diện
chiến tranh, tiến tới kết thức chiến tranh đúng thời cơ. Đấu tranh trên mặt
trận ngoại giao chính là sự phát huy cao độ sức mạnh chính trị của cuộc chiến
tranh chính nghĩa, nhờ đó cuộc kháng chiến đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng
hộ và giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, thêm bạn, bớt thù, phân
hoá và cô lập kẻ thù. Trong quá trình tiến hành chiến tranh cách mạng, khi cần
thiết và có điều kiện, còn có thể đấu tranh ngoại giao với đối phương, tiến
hành đàm phán.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm
lược, mặt trận đấu tranh ngoại giao trở thành một điểm sáng của sự phối hợp rất
chặt chẽ và trong nhiều thời điểm phát triển khá nhịp nhàng với mặt trận quân
sự, chính trị để cùng giành thắng lợi, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.
Hơn nữa, đấu tranh ngoại giao có một vai trò to lớn trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Một đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp, sắc
bén sẽ làm tăng thêm sức mạnh của các cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch
sử cũng đã chứng minh rằng, đấu tranh ngoại giao là một mặt trận đấu tranh quan
trọng, nhưng nó chỉ có thể tiến triển và thu được kết quả trên cơ sở những
thắng lợi về quân sự và chính trị mà quân và dân Việt Nam giành được trên chiến
trường. Do bản chất cực kỳ ngoan cố của chủ nghĩa đế quốc, cho nên chỉ có xây
dựng lực lượng chính trị và quân sự ngày càng lớn mạnh, đánh cho đối phương ngày
càng thất bại nặng nề hơn, làm cho lực lượng chính trị và quân sự của đối
phương ngày càng suy yếu nghiêm trọng, các âm mưu chiến lược liên tiếp bị phá
sản thì mới đè bẹp được ý chí xâm lược của kẻ xâm lược và ký kết với đấu tranh ngoại giao để buộc đối phương phải
tiếp nhận những điều kiện có lợi cho lực lượng chính nghĩa do thắng lợi mang
lại.
Có thể
khẳng định rằng, đường lối kháng chiến toàn dân gắn liền với kháng chiến toàn
diện là đường lối chiến lược đúng đắn của Đảng CSVN. Với chủ trương huy động
toàn dân kháng chiến, dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau, tuỳ theo hoàn
cảnh, khả năng và sức lực mỗi người, Đảng CSVN đã không bỏ sót, bỏ phí một sức
nào đứng ngoài cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung của dân tộc trên tất cả các
lĩnh vực. Kháng chiến toàn dân đi đôi với kháng chiến toàn diện là một phần
trong lời giải đáp về nguyên nhân chiến thắng của dân tộc Việt Nam.
Thấm nhuần tư
tưởng kháng chiến toàn diện, Đảng CSVN đã chỉ đạo các mặt đấu tranh trong 30
năm chiến tranh cách mạng Việt Nam
(1945-1975)
Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, quán triệt quan điểm kháng chiến toàn diện, Đảng
CSVN luôn xác định rõ rằng trước tiên phải đánh thắng đối phương về quân sự
thì mới giành được thắng lợi, mới kết thúc được cuộc chiến tranh. Đảng CSVN định
ra khẩu hiệu của dân tộc Việt Nam là: “Kháng chiến trên hết, kiến quốc để kháng
chiến”, “Tất cả cho mặt trận, tất cả để thắng lợi”. Thực hiện các khẩu hiệu đó,
Đảng CSVN đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội
nhân dân, coi trọng xây dựng hậu phương và căn cứ địa. Trong xây dựng lực lượng
vũ trang, việc giáo dục chính trị, huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật cho quân
đội được chú trọng. Ngoài trường Lục quân Trần Quốc Tuấn của Trung ương, mỗi
khu đều có trường quân chính để đào tạo cán bộ, cung cấp cho nhu cầu tác chiến
và xây dựng quân đội. Đảng CSVN và Chính phủ luôn coi trọng việc nắm vững và rèn
luyện quân đội, làm cho quân đội nhân dân Việt Nam xứng đáng là quân đội cách
mạng của nhân dân. Đảng CSVN cũng đặc biệt chú ý đến vấn đề tổ chức, huấn
luyện, trang bị và lãnh đạo dân quân, phổ biến xây dựng làng kháng chiến.
Công
tác sản xuất vũ khí để đảm bảo nhu cầu tác chiến là một đòi hỏi cấp bách. Trong
hoàn cảnh lúc đó, mặc dù trình độ khoa học – kỹ thuật còn thấp kém, máy móc và
nguyên vật liệu còn thiếu, song việc xây dựng được một số cơ sở sản xuất vũ khí
thô sơ và nghiên cứu sản xuất được một vài loại vũ khí không thể không có để
chống lại vũ khí hiện đại của kẻ thù là một thành công lớn lao. Thành công đó
đã cổ vũ và mở đường thắng lợi cho nền công nghiệp quốc phòng trẻ tuổi của Việt
Nam phát triển. Cùng với sự phát triển thắng lợi của cuộc kháng chiến, nền quốc
phòng non trẻ của Việt Nam đã làm được những việc phi thường, không ngừng cung
cấp cho tuyền tuyến những vũ khí ngày càng tinh xảo như các loại mìn, lựu đạn,
súng không giật (SKZ), đại bác không giật
(DKZ)… khiến cho đối phương hết sức bất
ngờ, bị động.
Trên
mặt trận quân sự, lực lượng vũ trang đã tiến hành chiến tranh du kích, từ chiến
tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, trong quá trình đó luôn luôn kết
hợp chặt chẽ hoạt động tác chiến của mình với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa
từng phần của quần chúng ở các vùng sau lưng đối phương. ở đây, ngay trong điều
kiện đối phương thực hành chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, quần chúng cách mạng ở
thành thị và nông thôn nhiều nơi đã kiên quyết đấu tranh giáp mặt với đối
phương, dùng nhiều hình thức đấu tranh phong phú: chống khủng bố, tàn sát,
chống bắn phá, cướp bóc, chống bắt lính, bắt phu, đòi chồng con, vận động quân lính
trở về với cách mạng v.v. đi đến kết hợp tác chiến với địch vận, diệt tề, trừ
gian, khởi nghĩa từng phần lật đổ chính quyền cơ sở của đối phương ở nông thôn
v.v.
Coi trọng mặt trận quân sự, song không buông lơi mặt trận
chính trị. Quân và dân Việt Nam đã kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu
tranh chính trị. Đối với bên ngoài, Việt Nam ra sức cô lập kẻ thù, để làm cho
mình có thêm nhiều bạn bè, làm cho nhân dân Pháp và các nước thuộc địa khác,
cũng như các lực lượng hoà bình, dân chủ thế giới hiểu rõ sự thật, đồng tình,
rồi đi đến ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Đảng,
Chính phủ và nhân dân ta luôn coi trọng tình đoàn kết hữu nghị, không ngừng xây
dựng liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung với hai nước Lào, Campuchia.
Với bản chất của chủ nghĩa thực dân xâm lược, trong quá
trình chiến tranh, thực dân Pháp luôn tìm cách dùng những thủ đoạn về chính trị
để lừa bịp dân chúng, đánh lừa dư luận, nhằm gây khó khăn nhân dân Việt Nam và
cải thiện tình hình chính trị của mình. Đảng CSVN nhận định: “Bọn thực dân
Pháp, ngoài chính sách võ lực, đã dùng đủ mưu mô để chia rẽ lực lượng của ta,
làm yếu sức kháng chiến của dân tộc ta”[24].
Vì thế, Đảng CSVN đặc biệt chú trọng đến mặt trận đấu tranh chính trị nhằm vạch
trần bản chất xâm lược, phi nghĩa và các thủ đoạn lừa bịp của thực dân Pháp,
phát huy ưu thế chính trị, nêu cao chính nghĩa của ta. Đồng thời, nhằm đánh tan
âm mữu chia rẽ của đối phương, Đảng CSVN hết sức chú ý đến vấn đề đảng phái.
Đảng chủ trương phải chống tất cả mưu mô của thực dân Pháp toan chia rẽ khối
kháng chiến ra thành hai khối: Quốc gia và cộng sản, giả danh dùng chiêu bài
chống cộng sản để làm yếu mặt trận dân tộc kháng chiến. Phải bằng những hành
động thiết thực để chỉ cho các đảng phái thấy rằng, “chúng ta đặt quyền lợi dân
tộc trên quyền lợi đảng phái, chúng ta thành thật đoàn kết với họ trong cuộc
tranh thủ độc lập, thống nhất cho nước nhà”, phải lãnh đạo kháng chiến, “nhưng
chúng ta không phải nhất thiết chiếm hết quyền hành. Chúng ta phải luôn luôn
đúng đắn, rộng rãi, thành thật trong chính sách liên minh với các đảng phái
khác”[25].
Đối với vấn đề tôn giáo, dân tộc, Đảng cũng nhận thức sâu
sắc âm mưu của đối phương: Giặc Pháp đang ra sức lừa phỉnh, chia rẽ dân Việt
Nam - chia rẽ đồng bào bên lương với đồng bào bên giáo; chia rẽ người Việt ở
miền Nam và người Việt ở miền Bắc; chia rẽ các dân tộc Nùng, Mán, Thổ, Mên,
Lào, Kinh; chia rẽ người giàu với người nghèo… Do vậy, phải đập tan những luận
điệu lửa phỉnh cùng với âm mưu chia rẽ của đối phương, phải làm cho dân chúng
rõ mục đích kháng chiến là “cốt đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập và thống
nhất cho nước nhà; mang tự do, hạnh phúc lại cho toàn dân. Của cải nhà giàu
được coi trọng, đời sống người nghèo được cải thiện; cũng như các quyền tự do
dân chủ khác, tự do tín ngưỡng được đảm bảo; đồng bào Trung, Nam, Bắc như một;
các dân tộc lớn nhỏ ngang hàng...”[26].
Với các đồng bào tôn giáo - tín đồ Cao đài, Hoà hảo và đặc biệt là đồng bào
Công giáo - là những phần tử mà đối phương chú trọng lôi kéo, Đảng CSVN nhấn
mạnh chủ trương tuyên truyền, cổ động, lôi kéo họ quay về Tổ quốc, làm cho họ
thấy chính sách đoàn kết, làm cho họ thấy quyền lợi của họ được đảm bảo chắc
chắn trong chế độ dân chủ. Đảng CSVN nhấn mạnh: “Chúng ta không bỏ qua cơ hội
nào để thân thiện với đồng bào Công giáo, nâng cao tinh thần ái quốc, kháng
chiến của họ. Trong giới Công giáo luôn nêu cao khẩu hiệu: vì Chúa, vì Tổ quốc,
ủng hộ mặt trận kháng chiến, Chính phủ kháng chiến”[27].
Mặt trận Việt Minh và sau đó là Mặt trận Liên Việt chính là một sự đoàn kết
thống nhất hết sức rộng rãi, vượt ra ngoài phạm vi các đảng phái, tôn giáo, dân
tộc - một sự thống nhất của toàn dân. Sự ra đời của Mặt trận Liên Việt đã đáp
ứng đầy đủ nhất những yêu cầu trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi theo đường lối của Đảng CSVN. Đó là một mặt trận đoàn kết mọi lực lượng có
thể đoàn kết, tập trung mọi lực lượng có thể trung lập, phân hoá mọi lực lượng
có thể phân hoá, tập trung mũi nhọn đánh đổ kẻ thù chủ yếu nhất của cách mạng
là bọn đế quốc xâm lược. Mặt trận đó được xây dựng trên cơ sở công nông liên
minh và được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
Một khía cạnh khác của phương diện
đấu tranh chính trị trong kháng chiến chống Pháp là xây dựng và phát huy sức
mạnh của chế độ mới. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng CSVN chủ trương bắt tay ngay vào việc xây dựng Nhà nước
cách mạng, nhằm chăm lo mọi mặt, chuẩn bị tốt nhất cho cuộc kháng chiến, thực
hiện “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, từng bước thực hiện những nhiệm vụ cách
mạng ngay trong quá trình kháng chiến.
Về mặt kinh tế, cuộc kháng chiến trên lĩnh vực này
cũng không kém phần gay go, gian khổ. Đối phương ra sức phong toả, phá hoại về
kinh tế, mong muốn đẩy nhân dân Việt Nam vào tình thế không thể tiếp tục kháng
chiến. Để đối phó lại, cần phải khắc phục những khó khăn, xây dựng cho được một
nền kinh tế kháng chiến dựa trên hai nguyên tắc: Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc
và tự cung, tự cấp về mọi mặt. Bước vào kháng chiến, nền kinh tế tài chính của Việt
Nam kiệt quệ, nhân dân vừa mới trải qua nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hơn
hai triệu đồng bào bị chết. Vì vậy, từ ngày đầu thành lập Nhà nước, Đảng và
Chính phủ đã xem nạn đói là một thứ “giặc” nguy hiểm. Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc chỉ rõ: “Công việc cứu đói cũng như công việc đánh giặc”[28].
Đảng và Chính phủ lập tức đặt ra kế hoạch chỉ đạo công tác cứu tế, kêu gọi lòng
yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế,
tổ chức “bữa cháo cầm hơi”... động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các
đoàn “cứu đói” và các “đội quân trừ giặc đói” để trồng trọt, khai khẩn, lấy
lương thực cho dân nghèo, hay quyên góp cho các quỹ cứu tế, mua gạo nhà giàu
bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu…
Trong
kháng chiến, thực hiện nguyên tắc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng, Chính
phủ và nhân dân Việt Nam đã ra sức xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, thực
hiện hậu phương thi đua với tiền phương, coi “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc
cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”[29].
Ngay từ cuối năm 1946, Hồ Chí Minh đã xác định: “Cuộc kháng chiến lâu dài của
chúng ta được thắng lợi là do nơi chúng ta động viên kinh tế được thành công,
vì chúng ta có biết động viên kinh tế một cách khôn khéo, thực lực của chúng ta
mới được đầy đủ và bền bỉ”[30].
Trong
kinh tế kháng chiến, việc phát triển kinh tế nông nghiệp có một tầm quan trọng
đặc biệt, phải nhanh chóng cải thiện đời sống cho nhân dân, đặc biệt là nhân
dân lao động, để cho nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến. Đây không chỉ đơn
thuần là sản xuất để cung cấp lương thực cho tuyền tuyến, mà thực chất còn nhằm
xây dựng, củng cố hậu phương. Chính vì vậy, vừa diệt giặc đói, giặc dốt và giặc
ngoại xâm; vừa đánh đối phương ngoài mặt trận, vừa thực hiện giảm tô, giảm tức,
ban hành chính sách thuế nông nghiệp, tiến hành cải cách ruộng đất ở hậu
phương. Những chính sách lớn đề ra cho việc xây dựng kinh tế kháng chiến là
động viên toàn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, ra sức xây dựng kinh tế quốc
doanh và kinh tế hợp tác, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, củng cố tiền
tệ, giữ vững giá cả. Năm 1952, Đảng và Chính phủ phát động cuộc vận động tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Cùng với đẩy mạnh sản xuất, Đảng và Chính
phủ còn chấn chỉnh lại chế độ thuế khoá, tài chính, xây dựng các ngành thương
nghiệp, ngân hàng. Nhờ chính sách kinh tế,
tài chính đúng đắn, Nhà nước căn bản thăng bằng được thu chi.
Để cải
thiện đời sống nhân dân, Đảng CSVN đã từng bước thực hiện nhiệm vụ cách mạng
ruộng đất. “Có cải cách ruộng đất, lần lần thủ tiêu những tàn tích bóc lột
phong kiến mới mong cải thiện đời sống cho quần chúng nhân dân đông đảo, làm
cho số rất đông nhân dân càng ngày càng tha thiết ủng hộ chế độ cộng hoà dân
chủ và tích cực tham gia kháng chiến chống đế quốc Pháp và bọn Việt gian”[31].
Đặc biệt, đến năm 1953, khi cuộc kháng chiến bước vào thời kỳ quyết liệt nhất,
Đảng CSVN chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải
cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Việc thực hiện chính
sách ruộng đất cũng từng bước đem lại quyền lợi cho nông dân. Qua việc giảm tô
và thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, chế độ bóc lột tô của giai cấp địa
chủ đã bị hạn chế rất nhiều. Nhờ đó, tinh thần và lực lượng kháng chiến của
hàng triệu nông dân được động viên mạnh mẽ, khối liên minh công nông được tăng
cường, chính quyền nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố, sức
chiến đấu của quân đội nhân dân cũng được nang cao mạnh mẽ, mọi mặt hoạt động kháng
chiến đều được đẩy mạnh. Cuộc vận động cải cách ruộng đất năm 1953 đã góp phần
quyết định vào chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Thực hiện cải cách ruộng đất
trong kháng chiến chính là một chủ trương rất đúng đắn và có tính sáng tạo của
Đảng CSVN.
Đi đôi
với việc xây dựng kinh tế, nhân dân Việt Nam đã tìm mọi cách bao vây kinh tế
đối phương, làm cho đối phương bị thiệt hại nặng và thất bại trong việc thi
hành chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Trong cuộc kháng chiến toàn diện, một mặt trận không thể
coi nhẹ là mặt trận văn hoá - tư tưởng. Nhiệm vụ của mặt trận này là
phải quét sạch mọi tàn tích nô lệ, ngu dân, phản động để lại và xây dựng một
nền văn hoá dân chủ mới với các tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng. Việt
Nam đã tiến hành có kết quả việc xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa, xây dựng đời
sống mới, chủ động giáo dục lòng yêu nước, yêu Tổ quốc, khơi dậy lòng căm thù.
Có thể nói rằng, nội dung và mọi phương hướng trong hoạt động văn hoá đều nhằm
mục đích phục vụ kháng chiến và thể hiện tư tưởng: “Phải kháng chiến văn hoá,
văn hoá hoá kháng chiến”. Trong thư của Trường Chinh gửi Hồ Chí Minh Về
nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước (ngày
16-11-1946), xác định rõ: Tất cả các nhà văn hóa Việt Nam, không phân biệt giai
cấp, đảng phái, tôn giáo, phải tích cực tham gia mặt trận dân tộc, giành thống
nhất và độc lập cho Tổ quốc, phải đem hết năng lực ra cứu nước và xây dựng
nước, phải đứng trên lập trường chung là dân tộc và dân chủ mà phụng sự Tổ quốc. Khẩu hiệu thiết thực của văn hóa
Việt Nam lúc này là: Dân tộc và dân chủ. Khẩu hiệu căn bản của văn hóa
Việt Nam trong giai đoạn này vẫn là: Dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá.
Nhiệm vụ cụ thể của văn hóa Việt Nam trong kháng chiến là: Phát triển tinh thần
đoàn kết và yêu nước của dân tộc, củng cố đức tin của dân tộc ở sự nghiệp dân
tộc giải phóng; phát triển những cái hay, cái đẹp trong văn hóa cổ truyền của
dân tộc, đồng thời bài trừ những cái xấu xa hủ bại; ngăn ngừa sức thâm nhập và
tấn công của văn hóa phản động, văn hóa thực dân, đồng thời học những cái hay,
cái tốt của văn hóa thế giới, nhất là văn hóa Tàu, Pháp; kiến thiết một nền văn
hóa mới cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo dục nhân dân, gây đời sống
mới, phát triển tư tưởng khoa học và học thuật tiến bộ, phát triển văn nghệ đại
chúng....
Thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam, sử dụng chính
sách “ngu dân”, tuyên truyền văn hoá mang tính nô dịch vào Việt Nam trong gần
cả thế kỷ. Đó là “một trong những phương pháp” mà thực dân Pháp dùng để cai trị
nhân dân Việt Nam và nó đã để lại những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống xã
hội. Hậu quả nặng nề nhất là hơn 90 % người dân bị mù chữ. Trên mảnh đất dân
trí thấp kém ấy, các tệ nạn, các hủ tục xã hội cũng có điều kiện để phát triển.
Do đó, Đảng CSVN đã coi nạn dốt là một thứ “giặc” nguy hiểm của chế độ. Hồ Chí
Minh khẳng định: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Đảng CSVN cũng xác định
nhiệm vụ về văn hoá trong kháng chiến là: “Tổ chức bình dân học vụ, tích cực
bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần
mới, bài trừ cách học nhồi sọ, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá
mới theo ba nguyên tắc: Khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá”[32],
đồng thời, phát động chiến dịch chống nạn mù chữ. Công việc giáo dục
phải thích hợp với thời kỳ kháng chiến, nghĩa là chương trình học phải thiết
thực, nhằm mục đích đào tạo nhân tài cần dùng cho kháng chiến trước hết, về tất
cả các ngành: Y tế, canh nông, quân giới cũng như thương mại, ngoại giao...;
học sinh phải vừa học vừa tham gia sản xuất; tiếp tục phát triển bình dân học
vụ; chú ý mở trường ở các vùng dân tộc thiểu số.
Đối với mặt trận ngoại giao, trong kháng chiến,
mặt trận đấu tranh ngoại giao đã phối hợp rất chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận
quân sự, chính trị để cùng giành thắng lợi. Khi cuộc chiến tranh chống Pháp mới
bắt đầu, VNDCCH đã không bỏ lỡ cơ hội lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng,
tiến hành đàm phán với Chính phủ Pháp để tranh thủ thời gian, củng cố lực
lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chỉ thị “Kháng chiến kiến
quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (25-11-1945) xác
định: “Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên
tắc “bình đẳng và tương trợ”. Phải đặc biệt chú ý những điều này: Một là thuật
ngoại giao là làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết; hai
là muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”[33].
Hai điều chú ý đó đã thể hiện rất rõ tính đúng đắn trong tiến trình của cuộc
kháng chiến.
Đảng CSVN
đã hai lần mở mặt trận đấu tranh ngoại giao với thực dân Pháp xâm lược. Đợt thứ
nhất là ở giai đoạn đầu của kháng chiến (1945-1946) và đợt thứ hai là ở giai
đoạn cuối nhằm kết thúc chiến tranh. Trong giai đoạn đầu, do đang ở thế yếu hơn
đối phương, chưa đủ lực lượng để có thể đối đầu được với thực dân Pháp và lực
lượng tay sai quốc tế và trong nước, Đảng CSVN chủ trương mở mặt trận đấu tranh
ngoại giao, một mặt nhằm trì hoãn chiến tranh, mặt khác là để vạch trần âm mưu,
thủ đoạn của thực dân Pháp xâm lược, làm cho thế giới biết nhiều hơn về cuộc
đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, từ đó có sự đồng tình và ủng hộ
cho kháng chiến.
Đợt
thứ hai, bắt đầu từ năm 1953, là thời điểm mà cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam đang trên thế tiến công và phản công mạnh mẽ, nhằm đánh thắng những nỗ lực
chiến tranh cao nhất của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ được thể hiện trong kế
hoạch Nava. Phối hợp với hoạt động quân sự, Đảng và Chính phủ Việt Nam chủ
trương mở đợt tiến công trên mặt trận ngoại giao khi nhà cầm quyền Pháp bộc lộ
ý định thương lượng để giải quyết cuộc chiến tranh bằng đàm phán. Đồng thời với
việc đưa ra chủ trương đàm phán, Đảng CSVN luôn nhấn mạnh: “Điều cốt tử là
trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút sửa soạn,
sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa
soạn ấy, và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần
quyết chiến của dân tộc ta”[34].
Do xác định chính xác đối tượng chiến lược của kháng
chiến là phản động thực dân Pháp, Đảng CSVN đã đề ra chính sách ngoại giao hết
sức đúng đắn, linh hoạt, góp phần đẩy đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến
trở thành một nghệ thuật trong việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc
tế, quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng thế giới. Chính sách ngoại giao
của Đảng CSVN cho thấy rõ rằng Việt Nam không đánh nước Pháp, nhân dân dân
Pháp, hay toàn bộ thực dân Pháp, mà chỉ đánh bộ phận phản động thực dân Pháp
xâm lược. Do vậy, chính sách của Đảng CSVN đối với từng đối tượng là người Pháp
được xác định hết sức cụ thể, nhằm thực hiện triệt để phương châm làm cho nước
mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết, làm cho người xa ta đến gần ta,
làm cho người sợ hoá thân ta - như Hồ Chí Minh từng nói. Sau này, trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, khi nhắc
đến việc ký kết Hiệp định 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946 và những
chính sách của Việt Nam đối với các lực lượng chống đối ở giai đoạn đó, Hồ Chí
Minh đã dẫn lại lời của Lênin: “Nếu có lợi cho cách mạng, thì dù phải thoả hiệp
với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thoả hiệp”[35].
Đó cũng chính là một phương châm trong đấu tranh ngoại giao để thực hiện triệt
để mục tiêu của cách mạng.
Như vậy, dùng đấu tranh ngoại giao để hỗ trợ cho các mặt
đấu tranh khác, đối ngoại “luôn luôn tìm cách bớt thù thêm bạn, tranh thủ sự
đồng tình của nhân dân thế giới và viện trợ của các nước”[36].
Ngoài ra, kháng chiến của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh chính
nghĩa, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vì thế, tiến hành kháng
chiến, dân tộc Việt Nam nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân loại tiến bộ.
Việc Đảng CSVN mở rộng mặt trận ngoại giao để đưa tiếng nói chính nghĩa của
cuộc kháng chiến ra thế giới bên ngoài là một chủ trương hết sức sáng suốt. Bên
cạnh đó, kháng chiến của nhân dân Việt Nam càng đánh lại càng thắng lớn, nên
những cuộc tiến công ngoại giao sắc bén của Đảng CSVN đã ngày càng đặt đất nước
vào một lợi thế lớn để thêm bạn, bớt thù, phân hoá kẻ thù, tập trung mũi nhọn
vào kẻ thù chính. Trải qua 8, 9 năm kháng chiến, khi lực đã mạnh, thế đã vững, Việt
Nam đàm phán với Pháp tại Hội nghị Giơ-ne-vơ và sau chiến thắng Điện Biên Phủ
vĩ đại, đã buộc Pháp phải ký kết hiệp định đình chiến.
Nhờ có đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn, hợp
lòng người và tài năng đấu tranh ngoại giao khôn khéo, sự đánh giá chính xác
của Hồ Chí Minh, của Đảng CSVN, mặt trận đấu tranh ngoại giao đã trở thành mũi
tiến công lợi hại, góp phần tích cực làm tăng thêm sức mạnh của cuộc kháng
chiến. Trong kháng chiến đã diễn ra sự xen kẽ giữa “vừa đánh, vừa đàm”, đánh là
chủ yếu, đàm là kết hợp, giúp tiến tới kết thúc chiến tranh đúng thời cơ. Sự
kết hợp giữa ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao đã đạt bước phát
triển cao, tạo thành sức mạnh tiến công tổng hợp rất mạnh mẽ để đánh thắng kẻ
thù xâm lược.
Với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tư tưởng
kháng chiến toàn diện lại một lần nữa được Đảng CSVN nhấn mạnh, và trên thực
tế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc thực sự là cuộc chiến tranh
toàn diện, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận xét: “Cuộc chiến tranh giải
phóng của nhân dân miền Nam là một cuộc chiến tranh toàn diện”[37],
bởi vì, “cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta ở miền Nam cũng tiến hành
về mọi mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá…”[38].
Trong chiến tranh, trên cơ sở của phong trào đấu tranh
chính trị rộng lớn, có sự phối hợp của lực lượng vũ trang nhân dân tiến công
vào quân đội đối phương, phong trào nổi dậy của quần chúng có thể diễn ra nhiều
lần, ngày càng mạnh mẽ. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam có sự kết hợp ở
một trình độ mới trong điều kiện lịch sử mới lực lượng vũ trang với lực lượng
chính trị, đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, khởi nghĩa vũ trang với
chiến tranh cách mạng để lật đổ ách thống trị thực dân mới và đánh bại chiến
tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đó là sự phát triển của chiến tranh
toàn dân, toàn diện lên một bước rất cao. Cả 14 triệu nhân dân miền Nam đều
xông ra tiền tuyến, tiến công quân đội xâm lược Mỹ, quân đội và chính quyền tay
sai bằng cả quân sự, chính trị và binh vận, tiến hành rộng rãi khởi nghĩa trong
chiến tranh, kết hợp song song đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi
nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng, kết hợp song song đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng, kết hợp
nổi dậy của quần chúng với tác chiến của lực lượng vũ trang cả trên phạm vi
chiến lược cũng như trong từng chiến dịch, từng trận chiến đấu.
Coi mặt trận quân sự có tầm quan trọng hàng đầu,
Đảng CSVN chú trọng công tác xây dựng về mặt quân sự. Có nghĩa là xây dựng bộ
đội thường trực lớn mạnh, lực lượng hậu bị hùng hậu làm nòng cốt cho toàn dân
vũ trang, toàn dân đánh giặc. Đảng CSVN đã thống nhất việc tổ chức lực lượng vũ
trang ở cả hai miền Nam, Bắc, vì vậy, mặc dù lực lượng vũ trang nhân dân, quân
đội nhân dân ở cả hai miền có tên gọi khác nhau, quy mô tổ chức khác nhau,
nhưng là lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thống nhất, là một quân đội nhân
dân Việt Nam do Đảng CSVN tổ chức và lãnh đạo. Đó là một lực lượng vũ trang
nhân dân hùng mạnh trong kháng chiến chống Mỹ, được xây dựng, phát triển theo
những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của Đảng CSVN. Dân quân tự vệ và bộ
đội địa phương ngày càng không những có số lượng đông, mà còn được trang bị
tốt, không những chỉ có bộ binh mà còn phát triển thêm các binh chủng khác như:
Pháo binh, cao xạ, công binh, đặc công… Bộ đội chủ lực rất thiện chiến, gồm
nhiều binh chủng hợp thành với một trình độ trang bị kỹ thuật hiện đại và những
kinh nghiệm chiến đấu phong phú. Bên cạnh lục quân không ngừng lớn mạnh, đã xây
dựng được một lực lượng quốc phòng không quân chính quy, hiện đại và phát triển
tốt lực lượng hải quân. Song song với việc tổ chức lực lượng vũ trang, đã giải
quyết tốt vấn đề trang bị vũ khí. Trên cơ sở tự lực cánh sinh là chính, cùng
với sự giúp đỡ của các nước anh em, trang bị của quân đội đã từng bước được
hiện đại hoá.
Trên mặt trận chính trị, trước tình hình và nhiệm
vụ mới, nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng sự nhất trí và tinh thần cho nhân dân,
bảo đảm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời
sống tinh thần của nhân dân, làm cho toàn dân, toàn quân nhận thức một cách sâu
sắc rằng, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân Việt
Nam là chống đế quốc Mỹ xâm lược để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và hoàn
thành cách mạng dân tộc chủ nghĩa nhân dân trong cả nước, bảo vệ hoà bình ở
Đông Nam Á và thế giới. Đảng CSVN lãnh đạo và tuyên truyền để nhân dân
hai miền Nam, Bắc tin tưởng, phấn khởi,
không sợ bất cứ khó khăn, gian khổ nào, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ.
Trên mặt trận chính trị, Đảng CSVN đặc biệt coi trọng
việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Trong việc xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất, bao giờ Đảng cũng nắm vững nguyên tắc củng cố khối liên minh công
nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đồng thời ra sức mở rộng mặt trận
một cách rộng rãi, khắc phục mọi khuynh hướng “tả” hẹp hòi. Trên miền Bắc, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp lực lượng toàn thể người Việt Nam cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã thực sự phát huy được sức mạnh mới của nhân dân trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc, phát huy vai trò quyết định của miền Bắc đối
với công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ở miền Nam, Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam (thành lập ngày 20-12-1960) đã đoàn kết được mọi tầng
lớp nhân dân thành một lực lượng to lớn, triệt để cô lập đế quốc Mỹ để đánh bại
đối phương. Mặt trận thống nhất ở miền Nam có thành phần rộng rãi hơn, đường đi
tới mục tiêu có nhiều bước đệm linh hoạt và uyển chuyển và được dựa chắc trên
khối liên minh công nông. Mặt trận phát triển sâu rộng ở cả thành thị và nông
thôn; đồng bằng và rừng núi. Do có sự đoàn kết rộng rãi đó, mà lực lượng đấu
tranh chính trị luôn phát triển lớn mạnh ở trên cả ba vùng chiến lược. Trước
khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra đời, Mặt trận là
người đại diện cho nhân dân miền Nam. Tại các địa phương, Mặt trận tồn tại,
phát triển với tư cách là chính quyền cách mạng ở các vùng giải phóng và đại
diện cho chính quyền cách mạng ngay trong các vùng đối phương kiểm soát. Trong
các vùng giải phóng của miền Nam, đã hình thành chế độ tự quản của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng.
Ngoài ra, một nhiệm vụ căn bản của mặt trận chính trị là
tăng cường nền chuyên chính dân chủ nhân dân đang làm nhiệm vụ lịch sử của
chuyên chính vô sản, tăng cường các cơ quan bạo lực của Đảng và Nhà nước, trấn
áp phản cách mạng, đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an, làm cho xã hội miền Bắc
trong sạch về chính trị, vững mạnh về tổ chức. Ở miền Bắc, đã xây dựng được Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Đảng CSVN coi trọng việc xây dựng, củng cố và nâng cao
hiệu lực của Nhà nước, của chính quyền các cấp trong việc quản lý, điều hành
một cách tập trung, thống nhất cả nước thực hiện đường lối chống Mỹ, cứu nước,
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng CSVN. Nhà nước được xây dựng, phát
triển và ngày càng hoàn thiện các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, từng
bước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân phù hợp với điều kiện có chiến tranh.
Các cơ quan Nhà nước phát huy hiệu lực của mình trong các mặt xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, bảo đảm an ninh xã hội… Đây thực sự là Nhà
nước độc lập, vững mạnh, tự chủ.
Một nhiệm vụ chính trị quan trọng khác là tiến hành công
tác binh vận. Đây là một mũi tiến công chiến lược gắn liền với đấu tranh quân
sự, chính trị, nhằm làm suy yếu, tan rã tinh thần quân đội đối phương, đồng
thời phá tan chính sách “dùng người Việt, đánh người Việt” vô cùng thâm độc của
Mỹ. Công tác này đã được thực hiện tốt trong suốt tiến trình kháng chiến, thu
được nhiều kết quả khả quan.
Trên mặt trận kinh tế, trước tiên, miền Bắc phải
tiến lên chủ nghĩa xã hội, phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt phải mạnh quốc phòng và kinh tế. Theo định hướng đó, miền Bắc
bắt tay ngay vào việc khắc phục các hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình kinh
tế, xây dựng lại đất nước. Một nhiệm vụ kinh tế quan trọng của miền Bắc là khôi
phục lại nền kinh tế sa sút sau chiến tranh. Với kế hoạch ba năm khôi phục kinh
tế (1955-1957), sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh. Ở nông thôn, cuộc cách mạng
ruộng đất được tiếp tục hoàn thành, đem lại quyền lợi thiết thực, giải phóng
đáng kể sức lao động ở nông thôn, củng cố niềm tin của nông dân vào chế độ mới.
Kết quả là cuối năm 1956, miền Bắc đã sản xuất được 4 triệu tấn lương thực,
vượt sản lượng năm 1939 là năm đạt cao nhất trước chiến tranh. Đồng thời, sản
xuất tiểu thủ công cũng được khuyến khích, các cơ sở công nghiệp ít ỏi còn lai
cũng được giữ vững, khôi phục và nâng cao dần sản xuất. Một số cơ sở công
nghiệp cần thiết để phục vụ đời sống nhân dân nhanh chóng được xây dựng, phát
huy nhanh hiệu quả. Sau một thời gian, kinh tế miền Bắc đã có bược phát triển,
đời sống nhân dân được cải thiện. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước đề ra kế hoạch
ba năm (1958-1960) phát triển kinh tế – văn hoá, đồng thời thực hiện cải tạo xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế. Sau ba năm, kinh tế mọi mặt của miền Bắc có bước
phát triển tốt. Với kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965), miền Bắc tiếp
tục đạt được những thành tích đáng tự hào. Từ đầu năm 1965, cả nước bước vào
chiến tranh. Ngay trong chiến tranh, miền Bắc vừa chiến đấu, vừa xây dựng, luôn
luôn tăng cường tiềm lực về mọi mặt, để có đủ sức người, sức của chi viện cho
miền Nam, đưa kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Càng về sau, vào những giai
đoạn quyết liệt của cuộc chiến tranh, nền kinh tế của miền Bắc ngày càng được
xây dựng và phát triển. Cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội đã bước đầu
được xây dựng và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Nền kinh tế trong nước đã có
thể cung cấp phần quan trọng cho nhu cầu phát triển sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân và nhu cầu quốc phòng. Khi cần thiết, có thể động viên nhanh
chóng nhân tài, vật lực cho chiến trường miền Nam. Như vậy, nhân dân miền Bắc
tiếp tục sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát triển đất nước mọi mặt, phù
hợp với điều kiện cả nước có chiến tranh.
Ở miền Nam, trên mặt trận kinh tế, dưới sự lãnh đạo của
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, cuộc sống mới nảy nở ở những vùng giải
phóng, chính sách ruộng đất được thực hiện. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” trở
thành hiện thực ở nhiều vùng giải phóng. Dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, đồng bào,
chiến sĩ trong các vùng căn cứ kháng chiến, các vùng giải phóng đã cùng nhau
tăng gia, sản xuất, thực hiện tự cung, tự cấp, cung ứng một phần nhu cầu về
lương thực, thực phẩm cho, góp phần nuôi quân đánh giặc.
Trên mặt trận văn hoá - tư tưởng, công tác văn hoá
- tư tưởng đã phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị, góp phần to lớn vào việc
giáo dục tư tưởng, động viên nhân dân cả nước vào cuộc chiến đấu chống lại kẻ
thù là đế quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam
là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đồng thời là một cuộc đấu tranh
giai cấp rất quyết liệt, gay go, phức tạp. Vì vậy, công tác tư tưởng một mặt
phải nêu cao tinh thần dân tộc, đồng thời ra sức giáo dục quan điểm giai cấp
trong Đảng và trong quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, trong kháng chiến chống
Mỹ, công tác tư tưởng đã làm cho tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam có định
hướng chính trị đúng đắn. Hiệu quả thật to lớn. Trên cơ sở thấu suốt đường lối,
chính sách của Đảng CSVN, ý Đảng và lòng dân là một, đạt tới sự thống nhất
chính trị - tinh thần cao độ, tới mức không gì phá vỡ nổi. Mỗi người đều sẵn
sàng hy sinh phấn đấu vì lợi ích tối cao của dân tộc.
Trong lĩnh vực văn hoá, quá trình xây dựng, phát triển
nền văn hoá đã làm cho văn hoá thực sự trở thành một vũ khí tư tưởng cách mạng
sắc bén của nhân dân Việt Nam và đã có tác dụng to lớn trong việc giáo dục ý
chí căm thù giặc, cổ vũ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy
truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, bồi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, động viên tinh thần lạc quan cách mạng yêu đời vươn lên, vượt mọi khó
khăn gian khổ, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng. Văn hoá đã đóng một vai trò
tích cực trong việc tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, của Chính phủ,
góp phần to lớn làm cho nhân dân Việt Nam vững vàng trong mọi tình thế, tuyệt
đối tin tưởng ở sự đúng đắn trong đường lối của Đảng CSVN trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nỗ lực đi đến thắng lợi cuối cùng. Văn hoá còn làm cho bộ mặt
tinh thần của nhân dân Việt Nam biến đổi sâu sắc, trực tiếp góp phần hình thành
con người mới, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Tiến công ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước luôn được coi là mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Nghị quyết
Bộ Chính trị tháng 1-1969 khẳng định: Cuộc đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò
quan trọng, tích cực và chủ động. Nó có nhiệm vụ góp phần phát huy thế thắng và
thế chủ động của kháng chiến, tiến công đối phương để đối phương phải xuống
thang chiến tranh xâm lược. Qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến, nhân dân
Việt Nam đã không ngừng nêu cao tính chất chính nghĩa, vị trí quốc tế của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, vạch trần tính phi nghĩa
của cuộc chiến tranh mà Mỹ đang theo đuổi chống nhân dân Việt Nam. Việt Nam chủ
động tuyên truyền làm cho nhân dân thế giới bắt kịp với những thắng lợi của
nhân dân Việt Nam, thất bại của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của
bạn bè thế giới. Dưới tác động của hoạt động ngoại giao, một mặt trận rộng lớn
của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống đế quốc
xâm lược đã hình thành và phát triển. Mặt trận quốc tế đó đã góp phần tạo ra
một tập hợp lực lượng lớn chưa từng có, bao vây, cô lập, tiến công Mỹ từ mọi
phía. Điều đặc biệt là các hoạt động ngoại giao dựa trên việc phát huy tính
chính nghĩa của cuộc kháng chiến đã làm lay động lương tâm nhân dân Mỹ, thúc
đẩy phong trào phản chiến ngày càng rộng lớn và mạnh mẽ trong lòng nước Mỹ. Mặc
dù Chính quyền Mỹ đã ra sức bưng bít sự thật, nhưng sự tàn bạo mà họ đã gây ra
ở Việt Nam vẫn thâm nhập vào đời sống của người Mỹ, gây nên sự kinh hoàng và hổ
thẹn trong nhân dân Mỹ. Trong những năm 1967-1968, phong trào phản chiến của
nhân dân Mỹ bùng nổ và lan rộng chưa từng có ở nước Mỹ. Đây thực sự là cuộc nổi
giận của lương tâm người Mỹ. Có thể nói rằng, trong lịch sử thế giới, chưa có
cuộc đấu tranh của dân tộc nào được sự ủng hộ rộng và mạnh của nhân dân thế
giới, nhân dân nước đối phương như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc
Việt Nam.
Ngoài ra, đấu tranh ngoại giao đã kết hợp chặt chẽ với
đấu tranh chính trị và quân sự trên chiến trường, tạo hiệu quả mới, tạo thêm
thế và lực cho cuộc chiến tranh. Cục diện “vừa đánh, vừa đàm” trong suốt một
thời gian dài thực sự là đỉnh cao của việc kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa
cuộc chiến đấu của quân, dân trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đàm phán
và trên trường quốc tế. Thắng lợi của Hội nghị Paris (1973) là một minh chứng
sống động cho sự kết hợp ấy.
Tóm lại, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, tiến
công ngoại giao là một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược. ngoại giao đã
phát huy được thế thắng và thế chủ động, phát huy được thế mạnh chính trị, thế
mạnh quân sự trên chiến trường, phát huy vị thế trên trường quốc tế, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ đối
với cuộc kháng chiến. Ngoại giao góp phần không nhỏ vào việc triệt để lợi dụng
mâu thuẫn và bế tắc của đối phương, làm cho tình hình hậu phương của Mỹ ngày
càng bất lợi, làm Mỹ bị cô lập, lúng túng, bị động. Qua đó, ngoại giao phối hợp
với tiến công quân sự, chính trị, buộc Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp
chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta, góp sức cho thắng lợi cuối cùng của
cuộc kháng chiến.
Như vậy, suốt 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975),
Đảng CSVN đã đề ra và lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện một cuộc chiến tranh toàn
diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc chiến đấu và chiến thắng
những kẻ thù sừng sỏ, có sức mạnh vượt trội. Điều đó chứng tỏ rằng, nghệ thuật
chỉ đạo chiến tranh toàn diện của Đảng CSVN đã hình thành, được bổ sung, hoàn
thiện và đạt tới một tầm mức mới, đưa lại hiệu quả to lớn trong các cuộc kháng
chiến của dân tộc.
Tải bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr. 298.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 5, tr. 444.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 437.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 438.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 438.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 5, tr. 132.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 301.
[8]Trường Chinh, Mấy
vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội. 1983, tr. 128.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 3, tr. 473.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 178.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 349.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 350-351.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 164.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 419.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 354.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 162.
[17] Trường Chinh, Kháng
chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 40.
[18] Trường Chinh, Kháng
chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 41.
[19] Trường Chinh, Kháng
chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 41.
[20] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 4, tr. 319.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 146.
[22] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 5, tr. 131.
[23] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 5, tr. 156.
[24]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 349.
[25]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 350-351.
[26]Trường Chinh,
Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 43-44.
[27]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 352.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 32.
[29] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 6, tr. 178.
[30] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Sđd, tập 4, tr.479.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 9, tr. 199.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 28.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 27.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 46.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 22.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 112.
[37] Võ Nguyên Giáp, Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân
miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai nhất định thắng lợi, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội 1964, tr. 42.
[38] Võ Nguyên Giáp, Cuộc
chiến tranh giải phóng của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai
nhất định thắng lợi, Sđd, tr. 43.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!